17309563_1840646906190575_3818721039545605444_n

Các phẩm tính của thể dạng một vị Phật

Một vị Phật mang nhiều phẩm tính biểu trưng bởi các hình tướng khác nhau gọi là  “thân” (kaya/thân thể, thân xác) và được chia thành hai nhóm lớn:

– Dharmakaya/Thân Đạo Pháp, còn gọi là Thân Sự Thật hay Thân Biểu Hiện, phản ảnh những điều tốt lành mà mình thực hiện được cho riêng mình.

– Rupakaya/Sắc Thân, còn gọi là Thân Hình Tướng, nói lên những điều tốt lành mà mình thực hiện vì người khác.

Các thể loại thuộc vào Thân Hình Tướng lại tiếp tục được phân loại tùy theo các cấp bậc “tinh khiết” và “không tinh khiết”. Các vị đệ tử thực hiện được các cấp bậc thật cao thâm thì đạt được cấp bậc Sambhogakaya/Báo Thân (còn gọi là Thụ Dụng Thân), tức là Thân Thụ Hưởng hoàn hảo, các vị khác thực hiện được các cấp bậc khiêm tốn hơn thì đạt được các thể dạng khác nhau gọi chung là Nirmanakaya/Hóa thân (còn gọi là Ứng Thân hay Biến Hóa thân), tức là các Thân Biến Hóa (mang tính cách đa dạng).

Dharmakaya/Thân Đạo Pháp cũng được phân chia thành hai thể loại là Thân Tinh AnhThân Sự Thật của trí tuệ nguyên sinh. Đối với Thân Tinh Anh còn có các thể loại phụ là: Thân Tinh Anh tự nhiên và Thân Tinh Anh thứ yếu, sở dĩ gọi là thứ yếu là vì thể dạng Tinh Anh này chỉ mang tính cách phụ thuộc tạo ra bởi quy luật nguyên nhân hậu quả.

Thể dạng của một vị Phật đạt được bằng phép luyện tập kết hợp lòng quyết tâm (động cơ thúc đẩy) và trí tuệ, sẽ lưu lại các vết hằn của chúng bên trong thể dạng ấy của một vị Phật. Vết hằn lưu lại bởi động cơ vị tha (lòng quyết tâm thương người) sẽ tạo ra Thân Hình Tướng của một Vị Phật, nhằm mang lại những điều tốt lành cho kẻ khác. Vết hằn lưu lại bởi sự luyện tập trí tuệ sẽ tạo ra Thân Sự Thật của một vị Phật, với mục đích hoàn tất sự chuyển hóa nội tâm của chính mình.

Vậy động cơ thúc đẩy (lòng quyết tâm) và trí tuệ sẽ gồm có các thể loại như thế nào? Động cơ thúc đẩy tiên quyết nhất là trở thành một con người giác ngộ hướng vào kẻ khác. Động cơ thúc đẩy đó được khơi động bởi tình thương yêu và lòng từ bi, sẽ thúc dục mình thực thi các hành động từ bi nói lên các phẩm tính rộng lượng, đạo đức và nhẫn nhục. Thể dạng trí tuệ quan trọng nhất là tri thức thông minh thực hiện được sự trống không/Tánh không của sự hiện hữu nội tại.

Đấy là cách mang lại cho một vị Phật khả năng hiển hiện tự nhiên, không hề mệt mỏi, dưới bất cứ một hình thức thích nghi hay nhu cầu nào nhằm giúp đỡ kẻ khác, nhưng tuyệt nhiên không phải là vì mình và cho mình với tư cách là một vị Phật. Đứng về phía mình có nghĩa là với vị thế của một vị Phật, thì sự thực hiện toàn vẹn Dharmakaya/Thân Đạo Pháp sẽ là thể dạng của mình và mình sẽ an trú mãi mãi trong thể dạng đó.

Các phẩm tính tuyệt vời mang lại từ con đường, tức là thể dạng của một vị Phật, sẽ gồm chung trong “Mười Sức mạnh” và “Bốn điều không sợ hãi”, tất cả phản ảnh một cách cụ thể qua tinh thần vajra (vajra có nghĩa là “kim cương” hay “tiếng sét của Indra/Đế-thích”. Vajra/kim cương cũng là một pháp khí dùng vào các việc nghi lễ, và cũng là biểu tượng của toàn thể Phật giáo Tây Tạng. Kim cương nói chung biểu trưng cho bản chất rắn chắc không thể bị hủy diệt, không sai lầm, rạng ngời, trong suốt, là các phẩm tính của một tâm thức giác ngộ, tâm thức đó cũng tương tự như kim cương, không thể nào bị nứt rạn được – gcts). Sự hiển lộ của các phẩm tính đó chỉ có thể bị ngăn chận bởi các điều kiện bất thuận lợi xảy ra. Mười Sức mạnh của thể dạng một vị Phật là:

1- Biết được nguyên nhân và hậu quả, tinh khiết và cả không tinh khiết (có nghĩa là biết được nguyên nhân tốt hay xấu của một hành động và hành động ấy sẽ tạo ra hậu quả như thế nào).

2- Biết được sự chín mùi của các hành động (nghiệp đã đến lúc tạo quả).

3- Biết được những gì cao cả và những gì thấp kém, có nghĩa là phân biệt được các chúng sinh ở cấp bậc cao đã đạt được sự quyết tâm, và các chúng sinh yếu đuối còn mang nặng khổ đau.

4- Biết được cảnh huống (tình trạng, xu hướng) của mỗi chúng sinh.

5- Biết được các thể loại đệ tử, kể cả xu hướng và khả năng của họ đối với các hình thức tu tập khác nhau.

6- Biết được các con đường khác nhau đưa đến các thể dạng hiện hữu chu kỳ khác nhau (sáu cõi luân hồi) và cả các con đường khác nhau đưa đến các cấp bậc Giác Ngộ khác nhau.

7- Biết được các thể dạng tạo ra bởi thiền định, biết được các hình thức khổ đau và cả các thể dạng không bị ô nhiễm của kẻ khác.

8- Biết được các kiếp trước, của mình và kẻ khác.

9- Biết được cái chết và sự sinh, của mình và kẻ khác.

10- Biết được sự chấm dứt của tất cả các sự ô nhiễm.

[Ngoài Mười Sức mạnh trên đây] thể dạng của một vị Phật còn hàm chứa Bốn điều không sợ hãi sau đây:

1- Không sợ hãi khi nói lên rằng tôi đã giác ngộ hoàn toàn và dứt khoát đối với tất cả các hiện tượng (nhận biết được bản chất lừa phỉnh của mọi hiện tượng và thực hiện được sự trống không/Tánh không của chúng).

2- Không sợ hãi khi phải thuyết giảng [trước mọi người] về những nỗi khổ đau gây ra bởi sự thèm muốn dục tính, bởi hận thù và vô minh, và đấy cũng chính là các chướng ngại ngăn chận sự giải thoát; đồng thời cũng không sợ hãi khi phải thuyết giảng [trước mọi người] là các thứ biểu hiện lừa phỉnh là chướng ngại ngặn chận sự hiểu biết toàn năng về tất cả mọi hiện tượng; và cũng không sợ hãi khi phải thuyết giảng [trước mọi người] là phải làm cho tất cả các thứ ấy phải chấm dứt.

3- Không sợ hãi khi thuyết giảng về các con đường đưa đến sự giải thoát.

4- Không sợ hãi khi xác nhận là mình đã làm tan biến được mọi thứ ô nhiễm.

Khi đã tạo được cho mình một cách cụ thể các phẩm tính trên đây thì theo kinh sách mình sẽ là người đã đạt được giác ngộ từ khởi thủy (có nghĩa là không những loại bỏ được tất cả các thứ ô nhiễm trong kiếp nhân sinh này mà cả các nguyên nhân và các sự ô nhiễm trong các kiếp sống quá khứ của mình) và tâm thức căn bản của mình đã hoàn toàn trở nên nhân từ.

Đức Dalai Lama XIV 

Trích: Tâm điểm của Thiền Định – Hoang Phong chuyển ngữ