MRicard_©RaphaeleDemandre

Vượt qua các chướng ngại

Mọi rèn luyện đều đòi hỏi nỗ lực và mọi thay đổi đương nhiên đều gặp phải chống đối. Trong việc luyện tâm và thiền, rất nhiều trở ngại có thể cản bước tiến của chúng ta. Những chỉ dẫn truyền thống trong thiền xếp vào số những trở ngại đó sự lười biếng, hôn trầm và trạng thái ngược lại (loạn động, lơ đãng), cũng như thiếu kiên trì và trạng thái đối lập (cố gắng quá sức).

Lười biếng có thể nằm dưới nhiều dạng khác nhau, cũng gần như uể oải và thiếu động cơ. Thông thường, lười biếng là khiếm khuyết của những ai không chịu cố gắng một chút nào. Thuốc đối trị của bệnh này là nhớ tới giá trị của cuộc sống và của từng thời khắc trôi qua, và suy ngẫm về những lợi lạc của sự chuyển hoá bên trong. Những suy ngẫm ấy giúp ta tăng thêm cảm hứng và hăng hái.

Một hình thức lười biếng khác là nghĩ rằng: “Điều ấy không phải để cho mình. Nó vượt quá khả năng của mình. Thà đừng lao đầu vào còn hơn.” Tóm lại là khước từ cuộc chạy trước cả khi xuất phát. Để vượt qua trở ngại này, chúng ta hãy đánh giá đúng giá trị của tiềm năng chuyển hoá nằm ngay trong ta và định ra mục đích của cuộc đời theo một cách nhìn rộng rãi hơn.

Hình thức lười biếng thứ ba là không quan tâm thực hiện ngay điều mình biết là quan trọng nhất, và lẽ ra phải làm điều đó thì lại phung phí thời gian vào những hoạt động chẳng ra đâu vào đâu. Để tránh rơi vào tình trạng này, chúng ta phải xác định một trật tự ưu tiên trong những mối quan tâm của mình, và hãy nhớ rằng thời gian của chúng ta là có hạn, trong khi những hoạt động tầm thường thì nhiều vô kể, hệt như những đợt sóng trên mặt đại dương.

Phân tán là sự gây nhiễu chung trong thiền. Có người hành thiền nào mà không phải là nạn nhân của nó? Đó là điều hoàn toàn bình thường, bởi vì khi bắt đầu thực hành thiền, tâm trí của ta đang ở trạng thái vô kỷ luật và loạn động; đương nhiên, chúng ta không thể hi vọng rằng tâm trí ấy sẽ lắng yên ngay lập tức được. Mục đích của thiền chính là làm cho tâm trí trở nên mềm dẻo và dễ uốn nắn, tập trung hay thư giãn theo ý mình và nhất là giải phóng nó ra khỏi tác động của những đau khổ tinh thần và khỏi sự lẫn lộn. Để chống lại những tình trạng này, cần phải vun bồi sự cảnh giác và liên tục đưa tâm trở lại với đối tượng thiền quán mỗi khi nhận ra nó đã bị phân tán. Chúng ta nên nhớ tới lý do khiến ta hành thiền. Mục đích của chúng ta không phải để mất thì giờ trong những suy nghĩ miên man, mà dùng thời gian một cách tốt nhất để xây dựng được những điều kiện của chân hạnh phúc cho mình và cho người.

Hôn trầm và loạn động cũng là hai trở ngại lớn, làm thiền bị gián đoạn. Buồn ngủ khiến tâm mờ tối, còn loạn động thì làm cho tâm không yên được. Hôn trầm có thể đi từ chỗ tâm trí nặng nề đến buồn ngủ thông qua các giai đoạn như: uể oải, chán chường, nửa tỉnh nửa mê, hoặc bất kì một tâm thái mơ hồ và mờ mịt nào.

Thiếu minh mẫn là một cản trở quan trọng, quan trọng cũng như người ta mong muốn dùng sự tập trung để hiểu rõ hơn bản chất của tâm thức. Thiền sư đương đại Bokar Rinpoche đã giải thích rằng: “Khi ngắm biển giữa ban ngày, chúng ta nhìn thấy những viên sỏi và rong biển ở dưới đáy qua làn nước trong veo. Thiền cũng phải mang phẩm chất trong sáng như thế, cho phép ta ý thức trọn vẹn về tình trạng của tâm mình. Trái lại, về đêm, mặt biển là một khối đen và dầy đặc, ta không nhìn thấy được, cũng như tâm thức nặng nề và tối tăm trên thực tế sẽ cản trở việc hành thiền, dù bề ngoài nom có vẻ như bình yên[i].

Để khắc phục tình trạng này, nên ngồi lại cho thẳng lưng và khoẻ khoắn, mắt nhìn hướng lên trong khoảng không trước mặt và bỏ bớt quần áo nếu như mặc quá nhiều. Cần tăng cường sự tập trung và chú trọng vào trạng thái tỉnh giác trọn vẹn vào thời điểm hiện tại.

Loạn động là một hình thức phân tán cực kỳ linh hoạt, trong đó tâm thức liên tiếp nảy sinh ra những ý niệm do phản xạ của thói quen và tưởng tượng gây ra. Trạng thái loạn động ghê gớm này không ngừng cuốn chúng đi xa khỏi đối tượng thiền định. Chúng ta đang ngồi yên đó, nhưng tâm trí thì lại đang đi vòng quanh thế giới. Trong trường hợp đó, hãy thả lỏng tư thế ngồi, mắt nhìn thấp xuống, và chấn chỉnh lại các giác quan bằng cách nhớ vì sao chúng ta ngồi đó và mục đích chúng ta nỗ lực là gì.

Mọi sự rèn luyện đều đòi hỏi những cố gắng đều đặn, thường xuyên. Thiếu kiên trì sẽ làm giảm đi rất nhiều hiệu quả của thiền và làm yếu đi năng lực chuyển hoá của nó. Vì thế, như chúng tôi đã nói, cố gắng cao độ nhưng không thường xuyên sẽ không có tác dụng tốt bằng cố gắng vừa phải mà đều đặn. Chuyển hoá tâm thức một cách sâu sắc và lâu dài cũng chưa đủ. Ở đây, cần phải thay đổi tình trạng lười biếng bằng cách nghĩ tới giá trị của thời gian đang trôi đi, tới cuộc đời không biết còn được đến lúc nào của chúng ta và tới những lợi lạc của công việc rèn luyện mà chúng ta đang tiến hành.

Đôi lúc, chúng ta cũng có thể rơi vào tình trạng ngược lại, tức là nỗ lực thái quá do để quá nhiều thời gian vào việc chấn chỉnh trạng thái hôn trầm. Sự căng thẳng do điều này mang lại rốt cuộc sẽ làm xao lãng chính việc thiền. Cho nên cần cân bằng những nỗ lực của mình, nói cách khác là giữ quân bình giữa hai trạng thái căng thẳng và trễ nải, giống như Đức Phật khuyên người nhạc công chơi đàn vina mà chúng ta đã nói tới ở phần trên, và ngừng áp dụng cách đối trị ngay khi không còn cần thiết nữa, để cho tâm được nghỉ ngơi yên bình trong trạng thái tự nhiên của nó.

Nỗ lực thái quá cũng có thể do sốt ruột hoặc say mê, hai trạng thái không đưa ta tới đâu cả. Để trèo lên một ngọn núi cao, nếu bắt đầu bằng chạy thì ta sẽ nhanh chóng phải dừng lại vì hai buồng phổi làm việc quá sức. Cũng như vậy, nếu dây cung bị trương quá căng, nó sẽ đứt và nếu để lửa quá to thì món ăn sẽ bị cháy thay vì được ninh nhừ.

Đòi hỏi phải có kết quả ngay là do tính thất thường hoặc lười nhác. Đức Dalai Lama đã khôi hài nói rằng: “Ở phương Tây, người dân đôi khi hơi vội vàng quá. Họ muốn đạt được Giác ngộ vừa nhanh, vừa dễ và nếu có thể… vừa rẻ!” Cũng như phải kiên nhẫn chờ cho cây trồng lớn lên đến mùa thu hoạch kéo chúng dài ra nhanh chẳng để làm gì, bền bỉ là một phẩm chất không thể thiếu được trong thực hành thiền.

Các sách thiền dạy chín phương pháp để nuôi dưỡng sự tập trung, giúp tâm đạt được trạng thái buôn xả và khiến nó ổn định hơn. Ở đây, cần hiểu đạt được ý thức trọn vẹn có nghĩa là liên tục trú tâm vào đề mục đã chọn.

  1. Tập trung tâm trí vào một đề mục theo đúng như chỉ dẫn, mặc dù lúc đầu chỉ làm được trong một thời gian rất ngắn ; tránh để nó chạy theo những hình ảnh hoặc những ý niệm tản mạn.
  2. Trú tâm liên tục vào đề mục trong một thời gian tăng dần mà không bị phân tán. Để đạt được điều này, cần nhớ lại rõ ràng những lời dạy về cách giữ cho tâm tập trung vào đề mục, ghi nhớ những lời dạy đó và mang ra thực tập cẩn thận.
  3. Liên tục nhanh chóng đưa tâm trở lại với đề mục mỗi lần nhận ra tâm bị phân tán. Muốn thế, cần nhận ra rằng tâm đã bị xao lãng, đồng thời cần xác định được cảm xúc hoặc ý niệm nào đã gây ra sự xao lãng ấy; từ đó, sử dụng phương pháp nào để xử lý cho thích hợp. Dần dần, chúng ta sẽ có khả năng duy trì tâm an bình và ổn định trong khoảng thời gian dài hơn, trong trạng thái tập trung và tỉnh táo hơn.
  4. Trú tâm một cách cẩn trọng: tâm càng vững, càng tập trung thì càng dễ thiền. Thậm chí ngay cả khi sự chú tâm chưa được hoàn hảo, ta cũng không bị mất hoàn toàn đề mục thiền và sẽ được giải phóng khỏi những hình thức rối nhiễu của tâm loạn động.
  5. Làm chủ tâm thức: khi rơi vào tình trạng hôn trầm, cần khơi lại sự nhạy bén và rõ ràng của trạng thái hiện diện tỉnh thức, làm tươi mới lại cảm hứng và nhiệt huyết bằng cách ngẫm nghĩ về những lợi ích của sự tập trung hoàn hảo (định – samadhi).
  6. Làm cho tâm hài hoà: khi tâm loạn động một cách vi tế do quá nhạy bén, tựa như những câu chuyện rì rào ở phía sau sự chú ý, cần tránh sa vào trạng thái loạn động và phân tán để trấn an và đem lại sự trong sáng cho tâm, giống như ví dụ về âm thanh của tiếng đàn phát ra khi được so dây chuẩn.
  7. An định tâm hoàn toàn bằng cách trú tâm liên tục và mạnh mẽ để buông bỏ mọi bám chấp vào những kinh nghiệm thiền quán. Những kinh nghiệm này có thể nằm dưới nhiều dạng như: trạng thái hoan hỉ, minh mẫn, hoặc không có những suy nghĩ tản mạn, và cũng có khả năng thể hiện qua những động thái buồn vui tự phát, niềm tin không gì lay chuyển nổi, hoặc nỗi sợ hãi, ngất ngây, hay nản chí, sự đảm bảo chắc chắn hay nghi ngờ, thái độ khước từ mọi vật của thế gian này hay niềm đam mê, lòng thành kính vô hạn hay sự đánh giá tiêu cực. Tất cả những kinh nghiệm ấy có thể khởi lên không vì lý do nào cả. Chúng là tín hiệu báo rằng đang có những thay đổi sâu sắc trong tâm thức chúng ta. Cần tránh nhận mình là chúng, và chỉ coi chúng như những cảnh vật bên ngoài, được nhìn thấy qua cửa sổ con tàu đang chạy mà thôi. Nhờ sự định tâm hoàn toàn, những kinh nghiệm kia tự chúng tan biến đi mà không làm động tới tâm thức, và khi đó, tâm sẽ ở trong trạng thái bình yên sâu sắc.
  8. Giữ sự trú tâm vào một điểm: sau khi đã loại trừ tình trạng hôn trầm và loạn động trong tâm, hãy giữ sự chăm chú vào một điểm cho ổn định và rõ ràng trong suốt khoá thiền. Khi ấy, tâm giống như một ngọn đèn được chắn gió, ngọn lửa ổn định và sáng rỡ sẽ phát huy tối đa những khả năng của nó. Chỉ cần cố gắng một chút để đặt tâm trong dòng chảy của định, nó sẽ dễ dàng được duy trì, an trú trong trạng thái tự nhiên, thoát khỏi mọi ràng buộc và loạn động.
  9. Nghỉ ngơi trong một trạng thái cân bằng hoàn toàn: một khi tâm đã hoàn toàn quen với sự tập trung vào một điểm, lúc đó sẽ diễn ra một trạng thái buông xả tự nhiên và tâm sẽ an trú trong trạng thái đó; trạng thái này tự duy trì như thế mà không cần có sự cố gắng nào.

Tâm từ từ an định

Từ từ, tâm sẽ lắng xuống. Tuy nhiên, lúc đầu, ta có cảm giác ngược lại: càng cố an tâm, ta lại càng cảm thấy như có nhiều suy nghĩ hơn trước đó. Thực ra, không phải suy nghĩ đột ngột tăng lên về số lượng, mà là ta bỗng dưng ý thức được có nhiều suy nghĩ đến như vậy. Chúng tôi đã nói rằng không thể và cũng không nên chặn đứng những ý niệm đó. Ngược lại, điều quan trọng là phải làm chủ được tiến trình của chúng nếu muốn loại bỏ những nguyên nhân gây khổ đau và làm sinh sôi chân hạnh phúc. Cứ buông thả mình theo thói quen suy nghĩ chỉ làm chúng ta phụ thuộc ngày một nhiều hơn vào những nguyên nhân gây khổ, trong khi duy trì đều đặn thực hành thiền chẳng những tránh cho ta bị sa vào trạng thái bão hoà mà còn đưa ta tới tự do luôn đi kèm với làm chủ tâm thức và an lạc nội tâm. Kinh sách của nhà Phật ví von quá trình trấn an những cơn cuồng phong ý niệm tựa như chặng đường của thác nước, từ chỗ gầm gú ào ào ở thượng nguồn, rồi dần dần yên ả hơn khi chảy về đồng bằng trước lúc đổ ra đại dương mênh mông. Tiến trình của thiền bao gồm năm giai đoạn, được minh hoạ bằng năm hình ảnh sau:

Thác nước đổ xuống từ một vách đá dựng đứng biểu thị cho những ý niệm nối tiếp nhau liên tục; cho ta cảm giác suy nghĩ nhiều hơn so với thực tế bởi chúng ta ý thức được các chuyển động của tâm thức;

Thác nước luồn lách qua những khe hẻm biểu thị cho tâm xen kẽ giữa lúc nghỉ ngơi và hoạt động.

Dòng sông rộng lớn chảy xuôi không vật cản: tâm thức loạn động khi nó bị những sự kiện làm đảo lộn, nếu không, nó ở trong tình trạng yên lặng:

Mặt hồ lăn tăn gợn sóng biểu thị cho tâm còn hơi động ở bề mặt, song ở tầng sâu, nó vẫn yên ả và hiện diện;

Đại dương yên tĩnh: sự tập trung không gì lay chuyển nổi mà giờ đây không còn phải cố gắng, ta không còn cần tới những phương thuốc để trị lại những ý niệm vẩn vơ.

Một sự tiến bộ như vậy không thể có được trong một ngày, cũng không thể có được trong vài tuần, nhưng sớm hay muộn, cũng sẽ tới lúc chúng ta nhận thấy có tiến bộ thật sự. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận rằng cần phải có thời gian và sự kiên trì để làm chủ một bộ môn nghệ thuật hoặc thể thao, một ngôn ngữ hoặc bất cứ một bộ môn nào khác. Vậy tại sao lại không phải là như vậy đối với việc rèn luyện tâm thức? Cuộc phiêu lưu này đáng được trải nghiệm, bởi vì mục đích của nó không phải đơn giản chỉ là đạt được một kỹ năng bình thường nào đó, mà là để có được sự làm chủ và một cách sống, hai yếu tố quyết định chất lượng của cả cuộc đời chúng ta.

Nguồn cảm hứng

Lúc đầu chẳng có gì tới,

Quãng giữa chẳng còn lại gì,

Sau cùng chẳng có gì ra đi.

Milarepa

Thiền về tình thương yêu tha nhân

Ở những mức độ khác nhau, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về tình thương yêu tha nhân, về lòng nhân từ rộng lớn và về sự cảm thông mãnh liệt đối với những người đang chịu khổ đau. Một số người, về bản chất, có lòng vị tha hơn những người khác, đôi khi tới mức trở thành những tấm gương cao cả. Một số khác sống thu mình lại, khó có thể coi hạnh phúc của người khác là mục đích cơ bản của đời mình và càng không thể đặt nó lên trên quyền lợi của cá nhân mình. Tuy nhiên, vun bồi tính vị tha là điều cốt lõi, bởi lẽ không những nó giúp người khác được lợi lạc, mà còn là sự thể hiện một cách mãn nguyện nhất bản thân mình. Coi trọng thái quá “cái tôi”, trên thực tế, chỉ làm nảy sinh ra khổ đau.

Nhìn chung, ngay cả nếu những ý nghĩ vị tha khởi lên trong tâm thức chúng ta, chúng cũng nhanh chóng bị thay thế bởi những ý nghĩ khác không thanh cao bằng, như tính nóng giận hoặc lòng ghen tỵ chẳng hạn.

Chính vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải dành thời gian để nuôi dưỡng lòng vị tha, nếu chúng ta muốn nó ngự trị trong tâm thức mình, bởi vì ở đây cũng vậy, chỉ mong muốn thôi thì chưa đủ.

Như chúng ta đã thấy, thiền tức là làm quen với một cách sống mới. Vậy chúng ta sẽ thiền về lòng vị tha như thế nào? Trước hết, cần ý thức được rằng trong thâm tâm ai cũng khiếp sợ khổ đau và đều khát khao hạnh phúc. Một khi đã nhận ra khát vọng này, cần tiếp tục ý thức rằng ai cũng đồng tình như vậy. Và quyền không phải chịu khổ đau rất hay bị vi phạm – chắc chắn là quyền cơ bản nhất của các chúng sinh. Cuối cùng, cần ý thức được rằng có một phương thuốc chữa được sự đau khổ đó. Có thể cảm nhận một cách lạc quan những đau đớn về thể xác – ai trong chúng ta cũng tất yếu gặp phải – sao cho những đau đớn kia gây ít khổ hơn về tinh thần. Những đau khổ tinh thần rồi cũng dần dần bị loại trừ.

Đáng tiếc là khi lựa chọn cách thức để xây dựng hạnh phúc và phòng tránh khổ đau, dù không bị lạc lối hoàn toàn, người ta thường hay mắc phải sai sót. Một số người chìm đắm trong những hành vi lệch lạc và mù quáng, tìm hạnh phúc của mình trên đau khổ của những người khác bằng mọi giá. Thật phi lý khi từ chỗ hiểu sai về lòng vị tha, người ta lại mong cho một kẻ độc tài khát máu thành đạt trong những hành vi vô nhân đạo. Ngược lại, chắc chắn chúng ta có thể mong muốn rằng kẻ độc tài kia được giải thoát khỏi trạng thái thù hận đã kích động hắn làm hại người khác, và do đó, làm cho chính hắn trở nên bất hạnh. Làm như thế mới là một lòng vị tha được hiểu đúng đắn, bởi vì ước muốn trên thực sự nhằm đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Hãy chân thành thể hiện mong muốn sao cho mọi chúng sinh đều thoát khỏi những nguyên nhân gây ra đau khổ. Vì mục đích ấy, các kinh sách Phật giáo khuyên người ta nên vun bồi bốn ý niệm và làm cho chúng tăng trưởng không ngừng. Đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả (Tứ vô lượng tâm): tình thương, lòng cảm thông, niềm vui khi người khác hạnh phúc và tính không thiên vị (vô tư).

Thiền về Tình yêu thương đồng loại (Lòng Từ)

Hãy tưởng tượng một em bé đang tiến lại gần chúng ta và nhìn chúng ta với con mắt vui tươi, tin cậy và trong trắng. Chúng ta vuốt ve tóc em và âu yếm nhìn em, rồi ôm em trong vòng tay, cảm nhận trào lên trong lòng một tình thương yêu thánh thiện không điều kiện. Hãy để chất liệu yêu thương đó ngấm hoàn toàn vào tâm mình và chỉ muốn cho em bé này được hạnh phúc. Hãy trụ tâm một lát trong ý thức trọn vẹn về tình thương yêu ấy mà không khởi một niệm nào khác.

Chúng ta cũng có thể chọn bất kỳ một người nào khác mà mình rất quý yêu và biết ơn sâu nặng, như người mẹ của mình chẳng hạn. Hãy ước mong sao cho mẹ mình tìm thấy hạnh phúc và những nguyên nhân của hạnh phúc, rồi mở rộng suy nghĩ này tới tất cả những người thân của mình, sau đó tới những người ít quen biết hơn, rồi dần dần tới tất cả các chúng sinh. Cuối cùng, cầu mong hạnh phúc tới với những kẻ thù của chính mình và của nhân loại. Điều đó không có nghĩa là chúng ta mong muốn chúng thành công trong những âm mưu đen tối của chúng. Chúng ta chỉ đơn giản ước vọng cháy bỏng rằng chúng buông bỏ hận thù, tham lam, độc ác hay lãnh đạm, mong rằng lòng nhân ái và sự quan tâm tới hạnh phúc của người khác sẽ nảy nở trong tâm thức chúng. Bệnh càng nặng thì con bệnh càng cần tới lòng nhân từ, càng cần được chăm sóc, quan tâm. Hãy ôm lấy tất cả đồng loại trong tình thương yêu vô hạn như vậy.

Lòng cảm thông (Bi)

Bây giờ, hãy tưởng tượng rằng một người thân của chúng ta đang là nạn nhân của một tai nạn khủng khiếp trong đêm, ở trên một con đường. Người đó nằm trong vũng máu ở bên vệ đường, đang đau đớn quằn quại. Lực lượng cứu nạn vẫn chưa tới và chúng ta không biết xử lý ra sao. Chúng ta cảm thấy một cách mãnh liệt nỗi đau đớn của người thân như nỗi đau mình đang phải chịu, xen lẫn cảm giác lo âu và bất lực ngày một tăng. Nỗi đau đó ngấm sâu vào tận đáy lòng chúng ta, đến mức nó trở thành gần như không thể chịu đựng nổi. Làm gì bây giờ?

Lúc này, hãy thương yêu người ấy hết lòng? Hãy nhẹ nhàng ôm người ấy trong vòng tay của chúng ta. Tưởng tượng rằng những đợt sóng yêu thương toả ra từ chúng ta tới vỗ về người đó. Mường tượng rằng mỗi nguyên tử khổ đau giờ đây được thay thế bằng một nguyên tử yêu thương. Mong ước hết lòng rằng người thân của chúng ta sẽ qua được cơn hoạn nạn, sẽ khỏi bệnh và hết khổ đau.

Lòng cảm thông tới từ cùng một suối nguồn với tình yêu thương tha nhân. Lòng cảm thông chính là tình yêu thương được áp dụng để chống lại đau khổ.

Sau cùng, trải rộng lòng cảm thông này tới tất cả những người thân khác, rồi dần dần, tới tất cả các chúng sinh, đồng thời ước thầm trong lòng: “Cầu cho tất cả các chúng sinh đều được giải thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau của họ.”

Vui mừng khi thấy người khác hạnh phúc (Hỉ)

Trong thế gian này, có những người mang trong mình vô vàn phẩm chất tốt đẹp, có những người đem lại cho nhân loại biết bao nhiêu điều tốt lành thông qua việc thực hiện thành công những dự án đầy lợi ích. Cũng có những người thực hiện được khát vọng của mình nhờ những nỗ lực to lớn và tính kiên trì bền bỉ và những người khác có biết bao tài năng.

Chúng ta thành thực vui mừng trước những thành công của họ và hãy cầu mong cho những phẩm chất của họ không bị sa sút đi, mà ngược lại, luôn được duy trì và phát triển. Biết mừng vui trước thành công, may mắn của người khác là thuốc đối trị hay nhất cho sự nản chí và cách nhìn u tối và thất vọng về thế giới  và con người. Đó cũng là phương thuốc trị bệnh thèm muốn và ghen tỵ, những loại bệnh khiến chúng ta không có khả năng mừng vui khi thấy người khác hạnh phúc.

Vô tư, không thiên vị (Xả)

Không thiên vị là một bộ phận cấu thành chủ yếu của ba loại thiền trước, bởi vì mong cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra khổ phải là chung nhất và không phụ thuộc vào những bám chấp cá nhân, cũng không lệ thuộc vào cách đối xử của người khác đối với mình. Hãy theo nhân sinh quan của người thầy thuốc, vui mừng khi mọi người khoẻ mạnh và lo lắng chữa chạy cho những người bệnh bất kể họ là ai.

Hãy ý thức rằng tất cả các chúng sinh không trừ một ai, dù thân hay lạ hoặc là kẻ thù, đều mong ước tránh được khổ đau. Hãy biết rằng tính phụ thuộc lẫn nhau là cốt tuỷ của mọi hiện tượng trong vũ trụ và của mọi chúng sinh tồn tại trong vũ trụ đó. Phụ thuộc lẫn nhau chính là nền tảng của lòng vị tha. Giống như hình ảnh vầng thái dương rọi đều xuống người tốt cũng như người xấu, xuống một phong cảnh đẹp cũng như xuống một đống rác, hãy làm tốt nhất để trải tình thương yêu tha nhân tới tất cả các chúng sinh, không phân biệt, trải lòng cảm thông và niềm hoan hỷ mà chúng ta đã vun trồng trong ba loại thiền trước đó.

Một lần nữa, hãy nhớ rằng đối với kẻ kình địch của mình hay đối với kẻ thù của toàn nhân loại, không phải ta động viên hay khoan hồng thụ động cho thái độ và hành động gây hại của chúng mà coi chúng như những kẻ lâm bệnh nặng, hoặc những kẻ điên khùng. Và với thiện tâm mà chúng ta dành cho những người thân của mình, hãy cầu mong cho vô minh và những cảm xúc có hại thống trị tâm trí họ bị nhổ tận gốc ra khỏi tâm thức của họ.

Làm cách nào để kết hợp cả bốn loại thiền trên

Hãy bắt đầu bằng lòng thương yêu đồng loại (Từ), bằng ước mong mãnh liệt rằng các chúng sinh đều tìm được hạnh phúc và tìm ra những nguyên nhân đưa tới hạnh phúc. Nếu một lúc sau, lòng thương yêu này chuyển thành sự bám chấp vào “cái tôi” thì hãy chuyển sang thiền về sự không thiên vị (Xả) để có thể trải rộng tình yêu thương và thông cảm của chúng ta tới tất cả mọi người – người thân, xa lạ hoặc kẻ thù – một cách bình đẳng.

Nếu sự không thiên vị của chúng ta xoay qua trạng thái lãnh đạm, thờ ơ thì đó chính là lúc chúng ta nghĩ tới tất cả những ai đang đau khổ, làm nảy sinh ra một lòng cảm thông mãnh liệt (Bi), và cầu mong cho tất cả những con người đó bớt khổ đau. Tuy nhiên, cũng có thể do liên tục suy ngẫm về những đau khổ của tha nhân, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong một cảm giác bất lực và rã rời, thậm chí thất vọng, đến mức cảm thấy ngợp vì nhiệm vụ quá lớn và mất đi lòng can đảm.

Lúc này, hãy thiền về niềm vui trước hạnh phúc của người khác bằng cách nghĩ tới tất cả những người có nhân cách vĩ đại, tới những người đã nếm trải được sự mãn nguyện sâu xa của cuộc đời và mừng vui trọn vẹn cho họ.

Nếu như niềm vui này biến thành niềm hân hoan mù quáng và phân tán, hãy quay trở lại với tình thương yêu tha nhân và sau đó cứ như vậy. Theo cách này, hãy phát triển lần lượt cả bốn loại tâm Từ-Bi-Hỉ-Xả và tránh rơi vào những biến thiên có thể xảy ra khi thiền về loại tâm này hay loại tâm khác.

Cuối buổi thiền, hãy quán chiếu một lát sự phụ thuộc lẫn nhau của vạn vật. Hãy hiểu rằng chúng ta phải đồng thời phát triển cả trí tuệ lẫn tình thương, hệt như loài chim cần có hai cánh để bay vậy. Ở đây, trí tuệ chính là sự hiểu biết đúng nhất về thực tại và tình thương là lòng mong cầu cho mọi chúng sinh đều thoát khỏi những nguyên nhân gây ra khổ đau.

Nguồn cảm hứng

“Tình yêu thương tha nhân là trực cảm thấy mình gắn kết với tất cả mọi người. Bạn cảm thấy điều gì thì tôi cũng cảm thấy điều ấy. Điều tôi cảm nhận cũng là điều bạn cảm nhận. Không có gì khác biệt giữa chúng ta […] Khi bắt đầu hành thiền về lòng cảm thông, tôi đã quan sát thấy cảm giác lẻ loi bắt đầu mờ nhạt dần, nhường chỗ cho cảm nhận về sức mạnh lớn dần. Trước đây, ở những vấn đề mà tôi toàn thấy khó khăn thì giờ đây, tôi chỉ thấy ở đó những giải pháp. Trong khi coi hạnh phúc của mình quan trọng hơn hạnh phúc của những người khác, tôi bắt đầu nhận ra rằng sự no đủ của người khác cũng chính là nền tảng của tâm thái bình yên trong tôi.” – Yongey Mingyour Rinpoche [ii]

“Tôi không ngừng trải nghiệm trong nội tâm điều này: không có mối quan hệ nhân quả nào giữa cách hành xử của con người với tình thương yêu mà ta dành cho họ. Tình yêu thương đồng loại giống như một lời cầu nguyện nền tảng nâng đỡ bạn trong cuộc sống[iii].” – Etty Hillesun

Cầu mong cho tôi được là người che chở

Cho những ai không người nương tựa.

Được là người đưa đường cho những khách hành hương,

Là chiếc thuyền, là con tàu, hay nhịp cầu

Đưa chân những ai muốn tới bên kia bờ bến!

Ước sao tôi là hòn đảo cho những ai đang tìm đảo,

Là ngọn đèn cho người muốn đèn soi,

Là nơi trú cho kẻ cần chốn ở,

Là đầy tớ cho những ai đang muốn có người hầu!

Đối với tất cả mọi người, cầu cho tôi được

Là viên báu thần thông, là bình nước nhiệm màu,

Là phương trình khoa học; cho bách bệnh, tôi là thần dược,

Là cội cây đơm hoa trái xum xuê,

Là bò mẹ sữa không bao giờ cạn!

Như địa cầu và những tinh cầu khác,

Mong cho tôi mãi mãi như suối nguồn dào dạt,

Ở tầm vũ trụ, đáp ứng mọi nhu cầu

Của vô lượng chúng hữu tình!

Cầu cho tôi có thể cứ như vậy giúp chúng sinh,

Cho tới tận cùng vũ trụ,

Ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào,

Cho tới khi tất cả đều lên được bờ giải thoát!

Shantideva[iv]

Chừng nào còn vũ trụ,

Chừng nào còn chúng sinh

Xin cho tôi còn ở lại,

Để làm tan biến hết,

Khổ đau của thế gian.

Shantideva[v]

[i] Bokar Rinpoche, Thiền định, lời khuyên cho những người mới tập, NXB Claire Lumiere, 1999, tr73.

[ii] Yougey Mingyou Rinpoche sách đã dẫn.

[iii] Etty Millesum, Một cuộc đời bị đảo lộn, NXB Le Seuil, Points, 1995, tr.308.

[iv] Shatideva, sách đã dẫn, III, 18-22.

[v] Shatideva, sách đã dẫn, X, 55.

Matthieu Ricard

Nguyên tác: Nghệ thuật Thiền định

Lê Việt Liên dịch

Nguyễn Quang Chiến hiệu đính