Amithaba-Sukhavati-crop-820x410

Kinh Nghiệm Sau Khi Chết Của Các Delog Tây Tạng

Vì phần lớn tài liệu của delog đều đề cập đến bardo. Tôi đã dành toàn bộ chương này để so sánh về những chuyện kể.[1] Mục tiêu của chương này là minh họa nghiệp quả không thể tránh mà mọi người phải đối mặt. Tôi hy vọng nó sẽ gây cảm hứng để người ta cư xử đúng cách và cải thiện tương lai họ.

Người ta thường hỏi tại sao những delog chỉ nhắc đến những bài nguyện, thiền định, Bổn Tôn và những vị thầy của đạo Phật. Trong một ý nghĩa, tôi nghĩ rằng không nên quy cho chủ đề Đạo Phật. Theo ý kiến của tôi, tư duy về cảm nhận của an bình và hạnh phúc, và những biểu lộ của nó trong lời nói và hành động đều trở thành suối nguồn của ích lợi và giải thoát, dù chúng được diễn tả qua Đạo Phật hoặc bất cứ hệ thống lòng tin nào. Bất kể ai đã đạt được trí tuệ của bản tánh tối thượngan bình và hoan hỷ đều được trang bị năng lực giải thoát người khác, dù họ trong thân tướng của những Bổn Tôn Đạo Phật hay không. Tuy nhiên, những delog Tây Tạng ngẫu nhiên chứng kiến năng lực của những Bổn Tôn và giáo lý Đạo Phật vì chính họ là những người Phật tửthói quen tinh thần và nghiệp liên quan của họ được kết nối với với những Bổn Tôn và giáo lý của Đạo Phật. Như đã thảo luận trước đây, Đạo Phật tin rằng mọi hình tướng trước mắt và mọi kinh nghiệm mà chúng ta đi qua chỉ là sự phản ánh của thói quen tinh thần. Do vậy, bất cứ hệ thống niềm tin nào chúng ta đi theo nếu có trí tuệ của an bình và hoan hỷ tối thượng, thì sẽ là suối nguồn thật sự lợi ích trong cuộc sống và trong lúc chết. Chúng ta sẽ thấy và cảm nhận nó như suối nguồn giải thoátDanh hiệu và hình dáng không thực sự là vấn đề, vì chúng chỉ là những phương tiện thiện xảo, hay một phương sách đạt tới mục đích. Nó là tính chất của những mô tả này.

Hồi tưởng lại trong khi đọc những chuyện kể này làm chứng kiến những kinh nghiệm về hình ảnhâm thanh, và những hoạt động của bardo một cách khác nhau, vì những hình ảnh và âm thanh đó là ảo giác hay phản ánh tinh thần của riêng họ. Chẳng hạn, một người có thể thấy vị Pháp Vương trong thân tướng phẫn nộ, trong khi người khác thấy Ngài trong thân tướng hiền minh. Một số có thể thấy Vị Mặt-Khỉ đang ghi chép, trong lúc người khác thấy Ngài đang đọc trong gương những hành động của một người được phản chiếu. Mặc dù có nhiều khác biệt cá nhân, điều đáng chú ý là vẫn có nhiều điểm tương đồng trong những mô tả này.

HÃY ĐỂ BÀ NHỚ LẠI MỌI ĐIỀU BÀ THẤY: KINH NGHIỆM CỦA LINGZA CHOKYI

Mỗi mô tả của delog đều có một loại trí tuệ và đặc tính khác nhau. Chuyện kể của Lingza Chokyi có thể gần gũi với những kinh nghiệm mà phần lớn người thường có thể có trong cái chết và sau khi chết của họ.

Chokyi thấy chính bà nhìn vào giường mình; ở đó bà thấy xác chết của một con rắn lớn mặc quần áo của bà, bốc mùi hôi thối nồng nặc. Con rắn đang mục rữa là thân bà, nhưng bà không thể nhận ra. Thông thường người chết không thấy xác họ theo đúng hình tướng – ngay cả nếu họ hoàn toàn thấy nó.

Khi con của Chokyi bắt đầu khóc, ôm và hôn con rắn, toàn bộ nhận thức của Chokyi đột ngột chuyển biến. Bà bắt đầu nghe những âm thanh rền vang như sấm nổ cùng lúc. Bà thấy một cơn mưa đá bằng máu và những cục mủ kích cỡ bằng quả trứng bắt đầu giáng xuống bà. Thật không thể chịu nổi! Nhưng ngay khi đứa bé ngừng khóc, âm thanh của sấm nổ và mưa đá giáng xuống lập tức ngưng lại. Toàn bộ không gian trở nên an bình, và mọi đau khổsợ hãi lắng xuống. Nhận thức bà trở lại bình thường trong một lúc.

Phật giáo Tây Tạng thường tin rằng than khóc người chết sẽ làm hại họ. Đó là một trong những lý do mà Đức Milarepa diễn tả những mong ước này:

Nếu tôi bệnh, đừng ai hỏi thăm tôi,
Nếu tôi chết, đừng ai than khóc tôi,
Nếu tôi có thể chết trong sự cô độc như vậy,
Thì mong ước của hành giả này đã được hoàn thành.

Không có dấu chân [của họ hàng] tại cửa [của hang động].
Không có vết máu ở bên trong [đánh nhau dành quyền thừa kế]
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy
Thì mong ước của hành giả này đã được hoàn thành.

Chokyi nghe anh bà nói với gia đình, “Khóc lóc chẳng làm được điều gì tốt. Tốt hơn nên sắp xếp tang lễ. Chúng ta phải thỉnh một vị lama để thực hiện phowa, sự chuyển di tâm thứcChúng ta phải mời Ngài Thugje Rinpoche và hai mươi hoặc ba mươi vị tăng để thực hiện nghi lễ cho người chết.” (Một nghi lễ về cái chết kéo dài nhiều tuần hay suốt bốn mươi chín ngày tùy theo khả năng tài trợ của gia đình.” Chúng ta cũng phải thỉnh Ngài Gomchen [một lama Đại Thiền Giả] chủ trì lễ tang, vì bà đã có lòng tin nơi Ngài.”

Chokyi có thể thấy và nghe gia đình chuẩn bị đám tang cho bà, nhưng bằng cách nào đó bà tin rằng họ trù tính nghi lễ vì một số mục đích khác.

Khi một lama bắt đầu tụng Vajracchedika Sutra,[2] Chokyi cảm thấy hoan hỷ khi vừa nghe được kinh. Vào buổi trưa, Ngài Gomchen và khoảng hai mươi vị tăng đến. Bà đảnh lễ đến Ngài Gomchen và những vị khác và đến gần để nhận ban phước từ các Ngài. Khi không thấy các vị phản ứng, bà nghĩ rằng các Ngài giận và bà hỏi, “Nếu Ngài giận, vậy đến đây Ngài có phiền không?” Không ai nói một lời đáp lại. Chokyi không thể hiểu tại sao họ không thấy bà.

Chokyi thấy Ngài Gomchen đặt tay lên đầu “con rắn” và nói, “Chokyi, cái chết đã đến với con. Đừng bám luyến con cháu, tài sản, hay thực phẩm. Hãy hòa nhập tâm thức con với tâm thức ta. Sau đó chúng ta sẽ cùng nhau du hành đến cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Phật Vô Lượng QuangChúng ta sẽ đi đến đó!”

Chokyi suy nghĩ, “Con chưa chết. Con còn có thân.” Cùng lúc, bà muốn đi và hòa nhập theo hướng dẫn của lama. Nhưng vì sợ con rắn nên bà lui lại.

Vào lúc đó, bà nghe Ngài Gomchen hét lên PHAT, bà cảm thấy hoan hỷ và cực lạc. Sau đó Ngài Gomchen nói với gia đình. “Sự thực hiện phowa đã quá trễ, tâm của Chokyi đã hoàn toàn rời khỏi thân.”

Sau đó mọi người phục vụ bữa ăn chiều, nhưng chẳng ai cho Chokyi bất kỳ thực phẩm nào. Ngài Gomchen nói với con gái của Chokyi, “Hãy chia phần thực phẩm cho mẹ của con.” Nên con gái bà lấy một dĩa nhỏ thực phẩm với một miếng thịt và đem lại một ít trà. Đặt gần con rắn cô nói, “Mẹ ơi, mời mẹ ăn.” Dù bà vừa đói vừa khát, Chokyi không thể ăn vì ghê con rắn. Chokyi mất hết mọi thương mến con gái mình vì để thực phẩm gần con rắn.

Sau bữa ăn chiều, trong lúc thì thầm những bài nguyện, Ngài Gomchen đốt phần thực phẩm của bà trong lửa như một sur, một nghi lễ cúng dường lửa-thực phẩm. Chỉ như vậy Chokyi mới cảm thấy thỏa mãn như thể đã ăn uống xong. Sur là một nghi lễ truyền thống của Phật giáo Tây Tạng để cúng dường thức ăn, nước uống, và của cải cho người chết hoặc những sinh linh khác. Vật liệu sur được ban phước với những cầu nguyện và thiền định sau đó hồi hướng cho những chúng sanh hay riêng một chúng sanh nào. Những vật liệu đem đốt sẽ sinh ra mùi, vì mùi dễ hưởng thụ hơn cho những tinh linh và chúng sanh trong bardo.[3] Với nghi lễ này, Chokyi không còn cảm thấy đói hay khát nữa.

Ngay sau khi vị lama sắp xếp bàn thờ, họ bắt đầu thực hiện một nghi lễ chết phức tạp. Ngài Gomchen trụ trong thiền định. Chokyi tiếp tục cảm thấy buồn vì bà nghĩ mọi người đã khó chịu với mình và vì họ không phục vụ bà bất kỳ thức ăn nào. Khi bà không còn thân thô nặng để neo bám, bà thiếu sự ổn định để trụ trong một nơi hay duy trì một cảm giác kiên định.

Thế nên một ý niệm xảy đến với bà, “Ta sẽ lấy nữ trang của mình và bỏ đi.” Một cách trùng hợp, con gái bà òa lên khóc lần nữa, và một cơn mưa đá bằng máu và mủ bắt đầu nện vào Chokyi. Bà không thể thấy bất cứ thứ gì, và tâm bà bắt đầu nhảy quanh quẩn nhiều hơn.

Chokyi mong chạy đến Ngài Bangar Rinpoche đang dẫn đầu nghi lễ, nhưng bà nghĩ, “Ngài là một vị tăng. Ngài không thích một phụ nữ đến gần.” Nên bà trốn phía sau Ngài. Mặc dù việc thực hiện nghi lễ là êm dịu bà vẫn còn sợ hãi.

Sau đó bà chạy đến Ngài Gomchen. Bà thấy Ngài trong hình dạng một ánh sáng mờ của Đức Phật Bi Mẫn (Avalokiteshvara –Quán Thế Âm). Ngài đang nói, “Nyingje! Nyingje!” (Thương xót! Thương xót!) Chokyi hiểu rằng Ngài Gomchen đang hợp nhất tâm bà với tâm Ngài, trụ trong trạng thái thiền định bình thản. Nỗi sợ của bà được thanh thản và tâm kích động của bà hòa nhập vào cực lạc không thể tưởng.

Sau một lúc, bà trở lại với những suy nghĩ trôi nổi thông thường. Bà thấy người ta có bữa ăn. Ngài Gomchen lại làm lễ sur, và hưởng thức ăn đã được hồi hướng cho bà trong dạng mùi.

Sau một lúc, bà nghe một giọng nói từ bên ngoài, “Chokyi, hãy đến đây!” bà ra ngoài. Có ai đó mà bà nghĩ là cha mình. Ông nói, “Hãy ra ngoài, ta có cái này chỉ cho con. Ta sẽ để con trở lại ngay.” Vào lúc đó, bà suy nghĩ lần nữa, “Nhà mình đầy những vị lama. Nhưng tất cả các Ngài đều giận mình. chồng và con không thèm cho mình chút thực phẩm nào. Vậy mình sẽ theo cha.”

Ngay khi có tư tưởng đó, bà thấy mình trên một con đường khô khan xám xịt thậm chí không có cây hay một cọng cỏ. Từ đó bà có thể thấy sự vật trong một khoảng cách rộng lớn, và bà thấy một cánh đồng cát bằng phẳng. Giữa cánh đồng có một sông lớn đang chảy, nhưng khó nói là nó chảy theo hướng nào. Bà thấy một cây cầu rộng. Bên này cầu, tại chân núi là một thành phố lớn.

Người đã gọi Chokyi ra đem bà đến thành phố đó và nói, “Trước hết hãy nhìn quanh xem nếu có thể tìm thấy bất kỳ ai mà con biết. Ta sẽ đi qua bên kia sông. Con cũng nên đi đến đó.”

Thành phố này đầy người như thể bà nhìn vào một tổ kiến. Một số mặc quần áo nhiều màu và có da dẻ tốt. Số khác mặc đồ xấu xí và dơ bẩn. Nhưng tất cả đều buồn bã, khóc lóc và có gương mặt ảm đạm. Nghĩ rằng, “Mình có thể đối mặt với hoàn cảnh tương tự như những người này,” Chokyi bắt đầu run rẩy.

Ở giữa những người đó, Chokyi nhận ra Chogon, người thường chăm sóc gia súc của bà. Nhìn Chokyi, ông ta nói một cách quan tâm, “Chị đã đến đây hả?” bà nói, “Vâng, tôi đã đến.” Sau đó Chokyi hỏi dồn dập, “Anh sống ở đây hả? Những người đó là ai? Tại sao họ buồn thế? Có người yêu cầu tôi đến bên kia cầu, tôi nghĩ phải đi đến đó. Vậy ai ở phía bên kia?”

Chogon nói, “Đây là thành phố chuyển tiếp, biên giới của sống và chết. Chúng ta đợi ở đây vì tuổi thọ trên thế gian chưa hết. Những người có nước da tốt và mặc quần áo đẹp là những người đã tích lũy công đức trong quá khứ. Họ đang chờ thêm một số công đức tích tụ và hồi hướng cho họ bởi gia đình trong cõi người. Những người mặc quần áo dơ bẩn và nước da xấu là những người không tích lũy bất cứ công đức nào, hoặc không ai tạo công đức cho họ. Ngay sau khi tuổi thọ chúng ta cạn kiệt, mỗi người trong chúng ta sẽ đi qua bờ sông bên kia. Trên đó là vị Pháp Vương của những Tử Thần và những người hành hình của ông ta đóng ở đó. Họ sẽ kiểm tra nghiệp ghi chép của mỗi người. Sau đó họ sẽ gửi người có công đức lên những cõi cao hơn hoặc giải thoát. Những người phạm hành động xấu sẽ bị đọa xuống cõi địa ngục. Trong những cõi địa ngục, họ sẽ đau khổ không thể chịu nổi vì bị thiêu, nấu. Ngày và đêm, tôi lo lắng về số phận chờ đợi mình. Tôi đã đến bên kia đôi lần, nhưng họ chỉ dẫn tôi phải chờ ở đây, vì tuổi thọ của tôi chưa hết. Chị có thể đến bên kia và nghe Tử Thần nói gì. Nếu phải đợi ở đây, thì hãy trở lại.”

Sự Xét Xử Của Những Tử Thần

Ngay sau đó, Chokyi được gọi đến bên kia sông. Bà thấy một bức tường lớn ở đó. Phía bên kia của bức tường là một ngai bằng vàng vĩ đại. Trên ngai là vị Pháp Vương của những Tử Thần. Nước da Ngài màu vàng, và mặc áo tu sĩ với thiết kế bằng vàng. Hai tay Ngài trong tư thế thiền định. Trên đỉnh đầu Ngài có một chỗ phồng lên. Có màn lụa bao quanh và lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Mọi loại trang trí và vật liệu cúng dường được sắp xếp chung quanh Ngài. Nên Chokyi thấy vị Pháp Vương trong thân tướng của Đức Phật.

Bên phải của Pháp Vương là một trong những Tử Thần trong thân người, đầu bò đang cầm một gương trong tay. Bên trái là một Tử Thần đầu khỉ cầm trong tay một cân. Phía trước Pháp Vương là Tử Thần đầu hươu, đang đọc và ghi chép. Ngoài họ ra còn có nhiều loại Tử Thần với những đầu thú khác nhau. Mặc những trang phục khủng khiếp, họ để lộ răng nanh bén nhọn, nhìn chòng chọc với đôi mắt lồi ra, vung mọi loại vũ khí, và hét lớn tràn ngập không gian “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!” họ chạy, nhảy khắp nơi. Thậm chí nhìn vào là hoảng sợ. Số phận của khoảng ba trăm người ở đây đang được tranh luận.
Giữa những người này có một vị tăng cầm chuỗi hạt trong tay. Vị Pháp Vương hỏi chi tiết về những việc vị tăng đã làm trong lúc còn sống trên thế gian. Ông liệt kê nhiều việc làm đạo đức. Nhưng một hành động xấu, ông nhắc đến chỉ một điều là ăn thịt.

Theo lệnh của Pháp VươngTử Thần Awa Đầu-Bò và Đầu-Khỉ kiểm tra lại bản ghi chép. Họ tường trình với Pháp Vương, ngoại trừ những khác biệt không quan trọng, những gì vị tăng nói là đúng.

Vào lúc đó, Bổn Tôn Bảo Hộ Trắng xuất hiện và biện hộ cho vị tăng, “Người này đã hoàn thành những hành động đạo đức không thể tưởng, và không phạm bất kỳ hành động xấu nào. Không thể gửi ông ta đến cõi người và thậm chí đến cõi trời, mà phải là một cõi tịnh độ của đức Phật.” Ngài trình bày một túi đầy những hòn sỏi trắng biểu trưng cho việc làm đạo đức của vị tăng.

Sau khi so sánh, họ thấy việc làm thiện nặng hơn nhiều so với việc xấu. Vị Pháp Vương nhận xét, “tất cả hành động bất thiện dường như bị loại bỏ bởi những hành động đạo đức của ông ta.”

Sau đó Pháp Vương đọc quyết định: “Ngươi đã đạt mục đích có một cuộc sống làm người. Sinh làm người tốt hơn sinh vào cõi trời. Vậy Ta gửi ngươi đến làm con của một gia đình giàu có. Ở đó ngươi sẽ tiếp tục theo đuổi con đường của Giáo Pháp và sẽ tiến bộ.” Sau đó vị tăng biến mất dọc theo một con đường lốm đốm vàng.

Sau đó những Tử Thần tra vấn người khác. Ông ta nói, “Tôi không có bất cứ mô tả chi tiết nào về những hành động đạo đức để trình cho Ngài. Tôi là một người nghèo, chẳng có chút gì để ăn. Vợ tôi cũng chẳng có tín ngưỡng. Vậy, ngoài chuyện trả thuế, tôi chẳng làm từ thiện nhiều, tôi không thể thực hành tinh thần và thân thể về Giáo Pháp. Tôi đã giết một ít cá, gà, dê, và cừu. Dưới ảnh hưởng của người xấu, tôi đã ăn trộm của một số người ẩn sĩ, tôi rất ân hận!” Ông ta run rẩy và tự đánh mình. Những Tử Thần với vũ khí cười lên sung sướng. Chokyi hoảng sợ.

Sau khi kiểm tra, những Tử Thần tường trình với Pháp Vương, “Có thể đếm số cá mà người này giết hay không? Ông ta cũng đã giết hai mươi chín con gà, bốn mươi bảy con heo, bốn mươi ba con cừu, và sáu mươi con bò. Hãy nhìn số côn trùng đã bị ông ta giết khi đốt một ngọn núi! Đã đánh và ăn cắp của bốn người đi hành hương.”

Vị Pháp Vương nói, “Ngươi đã phạm những hành động xấu như vậy. Ngươi đã có một tấm lòng mục rữa. Vậy còn dám quan tâm cho mình nữa hay sao? Trộm cắp và làm hại người có tín ngưỡng thậm chí còn nghiêm trọng hơn giết súc vật.” Ngài nói với Tử Thần, “Bây giờ hãy để ông ta chịu đau khổ trong những cõi địa ngục khác nhau. Vì ông ta đã thụ hưởng những thực phẩm ăn cắp vô đạo đức, nên phải chịu ăn uống bằng sắt nấu chảy.”

Bổn Tôn Bảo Hộ Trắng xuất hiện và bào chữa để giảm bản án, đưa ra hai mươi hòn sỏi trắng để tiêu biểu cho việc làm thiện của ông ta. Sau đó Hắc Quỷ xuất hiện và đòi hỏi phải giam ông ta vào địa ngục thấp nhất, đưa ra một số lượng khổng lồ sỏi đen với kích cỡ như Núi Tu DiLập tứcTử Thần đặt thòng lọng quanh cổ và tóm lấy ngực với móc sắt, kéo ông ta vào phòng sắt nóng.

Kế tiếpxuất hiện một thầy tu mang một túi thuốc trên vai. Khi được thẩm vấn, ông ta liệt kê mọi cầu nguyện đã tụng niệm và tất cả những cúng dường ông ta đã làm. Ông ta chưa từng để những yogi nghèo nào đi về tay không. Ông ta là thầy thuốc và trị bệnh cho tất cả họ với khả năng tốt nhất của mình, và đã trị bệnh được nhiều người. Ông không bao giờ đòi trả chi phí mà chỉ nhận những gì người bệnh đem cho. Ông chưa từng cho thuốc sai với bất cứ ai, chẳng bao giờ giết bất cứ gia súc nào, nhưng là một chủ nhà, ông bị liên quan gián tiếp đến việc giết gia súc.

Sau đó những Tử Thần kiểm tra qua gương rồi nói, “Ngươi đã nói thật về những việc làm đạo đức. Nhưng khi Chongthar anh của ngươi đến để trị bệnh. Vì ngươi ghen tị với của cải của ông ta, ngươi đã cho sai thuốc và anh ngươi đã bệnh nặng hơn trong tám tháng. Cuối cùng ngươi trị bệnh cho ông ta nhưng để trao đổi với sự điều trị của mình ngươi đã lấy một bộ áo giáp phẩm chất tốt. Ngươi cũng đã giết một trăm bảy mươi ba gia súc.”

Khi kiểm tra những hòn sỏi, số lượng sỏi trắng hơi nhiều hơn. Tuy nhiên khi kiểm tra bằng cân thì sức nặng của hành động bất thiện lớn hơn.

Vào lúc đó, Pháp Vương nói với tu sĩ, “Nếu ngươi không cho thuốc sai, ngươi có thể được tái sanh vào cõi trời hay cõi người.” Sau đó Ngài ra lệnh Tử Thần, “Đem ông ta vào hồ chất độc đang sôi, hãy để ông ta luôn uống chất độc đang sôi đó. Đóng một ngàn gai sắt vào thân ông ta. Khi những hành động bất thiện được tẩy sạch, hãy để ông ta đi lênTử thần chộp ngực ông ta bằng móc sắt lôi đi giữa những chấn động to lớn.

Kế tiếp một người đàn ông mặc quần áo len màu xanh dương thú tội, “Khi người vợ đầu tiên rời bỏ tôi, tôi cũng mất tất cả hai trăm gia súc. Để báo thù, tôi đốt hai căn nhà của cha mẹ cô ta, đốt bảy mươi lăm gia súc, bắn và giết một người đàn ông và một phụ nữ đang cố chạy trốn. Sau đó tôi lấy vợ lần nữa và trở nên giàu có. Để tịnh hóa những hành động sai trái, tôi đi hành hương khắp nơi ở Tây Tạng trong hai năm và đã gặp nhiều vị lama ban phước. Tôi than khóc sám hối mọi hành động sai lầm của mình trước mọi người. Tôi đã nhận được quán đảnh và hướng dẫn từ một vị Đại Thiền Giả và đã thiền định về bản tánh của tâm, sự hợp nhất của quang minhtỉnh giác, và rộng mở. Tôi đã tuân theo nhiều bữa nhịn ăn và tụng niệm nhiều kinh điển và bài nguyện.”

Vào lúc này, Pháp Vương nói, “Có nhiều người vi phạm những hành động xấu, nhưng rất ít người tịnh hóa chúng. Mặc dù không có công đức trong hành động xấu, nếu ngươi tịnh hóa, chúng có thể được tiêu trừ. Đó là công đức của chúng. Nếu ngươi đã làm những việc thiện không có việc làm xấu, ngươi sẽ có thể trở thành một người dẫn dắt tất cả những ai có mối nối kết với ngươi đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ nhận tái sanh nơi cõi người và sẽ thực hành Kim Cương Thừa hay con đường mật truyền, và trong bốn kiếp ngươi sẽ thành công trong việc đạt Phật quả. Vậy, hãy đi theo con đường màu vàng, đó là con đường đến cõi người và trời.”

Sau một lúc, nhiều người đến phiên tòa của Pháp Vương cùng với Ngài Lingza Chokyi gửi lên hay xuống. Nhiều người được dẫn bởi vị thầy của họ. Nhưng rồi một người mới được đưa vào.

Vị Pháp Vương đột ngột đứng dậy, Ngài nói, “Ông ta đã đến kìa”. Tại một khoảng xa trên một con đường xuyên qua núi, Chokyi thấy một vị tăng với tầm vóc to lớn, được bao quanh khoảng ba trăm người đến gần. Nhóm này được khoảng ba ngàn người theo sau. Tất cả đều nhảy múa và ca hát OM MANI PADME HUNG. Sau đó vị tăng công bố, “Tôi tên là Jechung, Người Hát OM MANI PADME HUNG. Đây là thế giới của bardo và địa ngục. Tất cả những ai có mối liên kết với tôi, hãy đi theo tôi. Tôi sẽ dẫn đến cõi tịnh độ.” Đột nhiên cánh cửa của địa ngục tự nhiên mở ra. Những Tử Thần đuối sức, vũ khí rớt khỏi tay. Dòng người đi theo vị tăng. Những Tử Thần đứng dậy tôn kính và ban lệnh, “nhiều người trong các ngươi có thể đi nhưng không phải tất cả.” Khoảng ba trăm người bị bắt lại trong dòng người và trở lại phòng giam của họ trong địa ngục.

Chokyi không có mối nối kết với vị tăng này, nên không đi theo. Bà hỏi vị Pháp Vương, “Vị tăng này đem nhiều người đi mà không cần thẩm vấn. Ngài đã giải thoát những người này khỏi luật lệ nghiêm khắc của phiên tòa. Làm sao Ngài lại đầy quyền năng như vậy?”

Vị Pháp Vương giải thích, “Vị tăng đó được gọi là Jochung Ma-we Seng-ge, người hát OM MANI PADME HUNG. Trở thànhmột vị tăng khi còn trẻ. Ngài phát triển lòng tin nơi Avalokiteshvara, luôn luôn tụng niệm OM MANI PADME HUNG và phát triển lòng bi đến tất cả chúng sanh. Ngài tuân thủ và đẩy mạnh việc nhịn ăn. Ba trăm người đến với Ngài là những người đã thực hành những việc làm đạo đức và tuân theo việc nhịn ăn với Ngài. Những người mà Ngài dẫn dắt là những người tin tưởng, thấy, tiếp xúc, nhận được giáo lý hay nhận ban phước từ Ngài, cúng dường Ngài. Những người bị cản lại là những người không có nối kết hay có nối kết tiêu cực với Ngài.

Kế tiếp là một nữ tu sĩ hấp dẫn. Cuộc thẩm tra của phiên tòa bộc lộ rằng cô ta chỉ hưởng thụ cuộc sống. Cô không có niềm tin, không làm từ thiện, và khuất động nhiều việc làm bất thiện. Cô van xin được trả về để có thể thực hành Giáo Pháp. Nhưng cô đã bị đày xuống địa ngục.

Kế tiếp, là một cô gái với chuỗi tràng hạt trong tay đang hát OM MANI PADME HUNG đi đến gần. Tên cô là Marza Chodron. Cô đã nhận giáo lý và ban phước. Cô giữ niềm tin, tạo cúng dườngphục vụ những yogi, và chết lúc ba mươi ba tuổi.

Cô nói, “Tôi đã được các lama chỉ dạy rằng bất cứ âm thanh và hình tướng tốt hay xấu nào xuất hiện, chúng đều là ảo tưởng của tâm. Vậy tất cả các Ngài mà tôi thấy ở đây là những hình tướng tự hiện của chính tâm tôi. Trong chân lý, không có một thực thể đơn thuần nào hiện hữu. Tôi không nghĩ thân tôi hiện hữu. Bất cứ âm thanhsắc tướng nào xuất hiện đến tâm tôi, thì chẳng có gì để nhận thức. Thế nên không có gì bị nấu sôi hay thiêu đốt trong cõi địa ngục.”

Trong gương, họ thấy nhiều hành động đạo đức hơn cô đã liệt kê. Nhưng họ cũng ghi chép rằng cô đã gián tiếp liên quan đến những hành động bất thiện như giết một nắm tay côn trùng. Cô cũng gián tiếp liên quan đến việc cho phép giết thịt bảy gia súc cho đám cưới của cô. Một phần tư hậu quả của việc sát sanh dành cho cha, mẹ của cô dâu và chú rể, một phần tư cho chính cô, một phần tư cho chồng, và một phần tư cho người đồ tể. Tuy nhiên Pháp Vương ca tụng toàn bộ ghi chép về cô: “Nhờ thiền định về bản tánh của tâm, ngươi đã nhận ra sự phi hiện hữu của sự vật. Tất cả chúng xuất hiện như năng lực của chính tâm ngươi. Ngươi đã tự rèn luyện trong tánh giác phi hiện hữu về ảo tưởng. Ngươi đã rèn luyện trong ý nghĩa của tâm bất khả phân và những đối tượng xuất hiện đến tâm. Đó là đạo đức tuyệt đối. Mặc dù chưa thể đạt được nhận thức tuyệt đối vì sự rèn luyện của ngươi chưa đủ dài, những gì ngươi thực sự đạt được đều hùng mạnh. Mọi hành động xấu thứ yếu đã phạm đều được tịnh hóa. Trước khi nhận ra bản tâm, như nó là, thì kiến thanh tịnh của cái thấy cõi tịnh độ sẽ chưa xuất hiện. Bây giờ ngươi sẽ nhận tái sanh vào xứ Oddiyana[4] và sẽ tu hành trong rèn luyện mật truyền trong tám mươi năm. Sau đó sẽ nhận tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc và đạt được quả Phật.” Vào lúc đó, vị thầy của cô, Ngài Gomchen Kunga Yeshe đến. Có nhiều liên hệ với vị thầy này, cô đi theo con đường trắng.

Một ông lão khoảng bảy mươi tuổi đến, với chuỗi hạt và bánh xe cầu nguyện trong tay, với khoảng sáu mươi đàn ông và phụ nữ đi theo. Họ đang hát OM MANI PADME HUNG. Ông công bố, “Tôi là Sherab Rinchen, người chạm khắc OM MANI PADME HUNG trên những hòn đá. Mong tất cả những ai có mối kết nối với tôi hãy đến. Tôi đã được mời tới cõi tịnh độ của Đức Avalokiteshvara.” Khoảng bốn trăm người đi theo ông. Nhưng ba người bị những Tử Thần lôi lại.

Vị Pháp Vương nói, “Ông đã tụng niệm OM MANI PADME HUNG gần một trăm triệu lần. Đã chạm khắc OM MANI PADME HUNG trên nhiều hòn đá rồi đặt bên lề đường để người ta có thể tỏ lòng tôn kính mantra. Ông có một vợ và ba con. Người đi theo ông là những người có lòng tin nơi ông. Ông cũng có thể giải thoát nhiều người khác, nhưng vì quan điểm của người Tây Tạng cho rằng một lama lập gia đình là sai, nhiều người đã bị ngăn cản nên không có lòng tin nơi ông.”

Một Cái Nhìn Thoáng Vào Những Cõi Địa Ngục

Bây giờ, những người đã đến phiên tòa với Chokyi đều đã được gửi đi lên hay xuống sau khi thẩm tra. Với sự ngoại lệ của Chokyi, những người đến trước đều không còn ai. Nhưng nhiều người mới vẫn đang đến và chờ đợi. Chokyi nghĩ, “Mình chẳng có bất cứ bản liệt kê dài về những hành động đạo đức để trình bày. Nói dối là không hiệu quả ở đây. Vậy mình nên làm gì?” bà bắt đầu run rẩy sợ hãi.

Vào lúc đó, vị Pháp Vương nhắm mắt và bắt đầu trầm tư sâu xa. Sau đó Ngài hướng dẫn những Tử Thần, “Hãy để quý bà này thấy Thế giới của cái Chết. Hãy để bà ta nhớ lại tất cả những gì đã thấy, sau đó nhanh chóng đem trở lại đây.”

Một Tử Thần đầu-cọp đặt một thang đen xuống. Leo xuống ông yêu cầu bà đi theo để thấy những cõi địa ngục. Khi xuống, bà thấy mình trên một nền sắt đang đốt bởi lửa. Nền này được bao chung quanh trong một bức tường sắt khổng lồ đang cháy khoảng tám tầng. Trên những tầng khác nhau, Chokyi chứng kiến nhiều người đang trải qua những loại đau khổ khác nhau.

Trong số những cõi địa ngục mà Chokyi, Tsophu Dorlo, và những delog khác đã du hành qua là tám hỏa ngục và tám địa ngụchàn băng với những cõi địa ngục phụ. Chúng sanh trong những cõi địa ngục này đang chịu đựng những mức độ tra tấn khác nhau gây ra bởi những mức độ nghiệp bất thiện khác nhau của hành động thân, khẩu, ý, chủ yếu sự vi phạm đặt nền tảng trên sự sân hận hay thù ghét trong những kiếp sống trước.

Trên tầng thứ nhất ở dưới, nhiều người bị ném lưng họ lên nền đang cháy và cắt ra từng mảnh bởi những người hành hình. Mọi người đều nhìn nhau như kẻ thù và giết lẫn nhau với sự giận dữ to lớn. Bất cứ ai bị đuối sức, đều nghe một giọng nói, “Mong ngươi được sống lại.” Lập tức họ sống lại và trải qua tra tấn lần nữa. Những chúng sanh này là sự tái sanh của những người đã làm hại cha mẹ, bạn bè với ý nghĩ thù hận.

Trên tầng thứ hai ở phía dưới, những người hành hình đang ném những chúng sanh lên nền đang cháy. Họ vạch những đường trên thân và cắt họ thành từng mảnh theo lằn vạch với lưỡi cưa nóng bỏng. Những chúng sanh này là sự tái sanh của những người thợ săn hay đồ tể hoặc những người hạ độc người khác.

Trên tầng thứ ba ở phía dưới, nhiều chúng sanh bị ném vào cối sắt nóng bỏng và bị nghiền nát bằng búa cháy bỏng. Nhiều chúng sanh cũng bị chèn ép giữa những ngọn núi đang cháy. Họ là những tái sanh của thợ săn, đồ tể, kẻ giết gia súc, và kẻ chế tạo vũ khí.

Trên tầng thứ tư ở phía dưới, nhiều chúng sanh bị nướng trên lửa, và người ta chỉ có thể nghe tiếng họ gào thét. Họ là những người buôn bán chất độc và những kẻ giết người, gia súc, và chó. Họ cũng là những người phỉ báng tín ngưỡng và chế tạo vũ khí.

Trên tầng thứ năm ở phía dưới, trong một phòng khổng lồ nóng bỏng, bị thiêu đốt bên trong lẫn bên ngoài. Tất cả đều gào thét như tiếng sấm. Họ là tái sanh của những người xúc phạm Tam Bảo, giữ quan điểm đồi trụy, và trộm cắp những người có tín ngưỡng.

Trên tầng thứ sáu ở phía dưới, chúng sanh bị thiêu đốt trong ngọn lửa, thỉnh thoảng người hành hình lấy họ ra nghiền nát với những búa nóng bỏng, sau đó quăng họ lại vào ngọn lửa. Những người này đã chối bỏ luật nhân quả của hành động thiện và ác và đã giết những chúng sanh khác như cá, rắn với sự tàn bạo nghiêm trọng và khinh miệt nên nghiệp quả như vậy.

Trên tầng thứ bảy ở phía dưới, nhiều chúng sanh bị hầm trong sắt nóng chảy, và âm thanh của sắt sôi chảy gầm vang như sấm sét. Họ đã vi phạm những hành động xấu ác như đốt rừng giết chết nhiều chúng sanh và phá hủy công trình kỷ niệm của tôn giáo.

Trên tầng thứ tám ở phía dưới, chúng sanh bị đóng đinh vào nền đất nóng bỏng, thân họ bị cắt, bị đánh và tra tấn bằng nhiều dụng cụ khác nhau. Khi chúng sanh bị thiêu đốt, ngọn lửa chui qua những lỗ trong thân họ. Họ là những người chưa từng tích lũy công đức, đã phạm năm tội vô gián và vô gián tội phụ, đã hủy diệt những công trình kỷ niệm của tôn giáo và tài nguyên của cộng đồng. Họ cũng là những người phạm giới nguyện mật truyền, chấp thủ tà kiến, tạo ra niềm tin và mục đích tiêu diệt con đường mật truyền.

Chokyi cũng đi thăm những cõi địa ngục phụ gọi là “bốn địa ngục lân cận”. Trong những cõi này nhiều chúng sanh đang chìm trong bùn lầy dơ bẩn và đang ăn những côn trùng. Lưỡi của nhiều người bị kéo ra và bị cày bằng những lưỡi cày cháy bỏng. Khi họ trèo lên và xuống những ngọn núi mọc đầy những cây có những vũ khí sắc bén làm họ bị thương liên tục, hoặc họ đi trong một cánh đồng đầy lưỡi dao. Những tra tấn này là kết quả của việc làm ô uế nơi thanh tịnh và nơi thiêng liêng, kết tội người vô tội, bám luyến vào những đối tượng dâm ô, và thụ hưởng không hợp pháp tài sản của tôn giáo và của cha mẹ.

Sau đó Chokyi đi thăm tám địa ngục lạnh, ở đó vô số chúng sanh không mảnh vải che thân bị đông lạnh và run rẩy trên một nền băng tuyết với những cơn gió lạnh cắt da. Thân họ bị vỡ vụn thành nhiều mảnh và nhiều màu sắc, và họ bật ra mọi kiểu gào thét.

Thông Điệp Cho Người Đang Sống

Cuối cùng, Chokyi trở lại phiên tòa của vị Pháp Vương. Ngài nói với bà, “Ngươi là một trong những người bị đem đến đây vì nhầm lẫn, lộn xộn tên và thị tộc. Thân ngươi ở nhà vẫn an toàn. Mặc dù nhìn vào gương Ta không thể nhận ra bất cứ hạnh phúc nào đang chờ ngươi, nhưng bây giờ đến lúc ngươi có thể trở về nhà. Khi ngươi trở lại đây lần tới, hãy bảo đảm rằng ngươi không có lý do gì để lo lắng vì không có thực hành Pháp. Ngươi đã tự mình thấy hậu quả của những việc làm thiện và bất thiện.” Sau đó, Ngài gởi những thông điệp sau cho những người còn sống trên thế gian:

Có nhiều người đang thụ hưởng cuộc sống hoàn hảo của kiếp người,
Nhưng họ rời bỏ với hai bàn tay trắng không có bất kỳ thành tựu Giáo Pháp nào.
Với những người vô tâm các ngươi, hãy truyền thông điệp này:
Bảo họ rằng chính ngươi đã đến Thế giới của cái Chết
Bảo họ rằng ngươi thực sự đã gặp Pháp Vương.
Bảo họ rằng ngươi đã thấy mười sáu cõi địa ngục.
Bảo họ rằng biển sinh tử thì bao la.
Cho dù số lượng chúng sanh nam và nữ là vô tận,
Khi họ bị theo đuổi bởi nghiệp,
Không một ai có thể đi đâu khác, chỉ trừ một chỗ [phiên tòa của những Tử Thần]…
Khi kết quả của hành động xấu ác xảy đến với các ngươi,
Mọi hình tướng sẽ khởi lên như những kẻ thù.
Bất cứ thứ gì đều là kẻ thù.
Ví dụ như, một ngọn lửa xuất phát từ ngươi sẽ thiêu đốt ngươi.
Ngọn lửa này không bắt nguồn từ đâu khác.
Sự khởi lên nhận thức của chính ngươi như kẻ thù,
Là kẻ thù vĩ đại hơn bất kỳ thế lực khác.
Ai làm nên những vũ khí kinh khủng này?
Làm sao họ có chúng? Ai đã làm và đưa cho họ?
Ai là cha mẹ đã nuôi dưỡng
Những người hành hình ghê tởm của những Tử Thần?
Hiện tượng của địa ngục là [không thật] như giấc mộng của ngươi,
Ngươi sẽ không nhận ra tâm ngươi là vị Phật
Trừ khi ngươi học hỏi để nhận ra bản tánh rộng mở của mọi hình tướng.
Khi ngươi biết con đường của giải thoát nhận thức,
Ngươi sẽ không thấy bất kỳ địa ngục nào ngay cả nếu ngươi tìm kiếm nó.
Thậm chí nếu tìm được, nó sẽ là một cõi tịnh độ cực lạc.
Người ngu siđần độn – bị hoảng sợ bởi
Những hình ảnh tự tạo của chính tâm họ –
Mà thật ra họ bị sợ hãi bởi chính bóng mình.
Mặc dù không có thứ gì hiện hữu, sự vật xuất hiện trong nhiều tướng dạng.
Dù sự vật xuất hiện, đều không hiện hữu trong thực tại của chúng.
Đó là bản tánh của sự hợp nhất hình tướng và tánh Không.
Người không được giới thiệu vào bản tánh như vậy,
Chỉ nên suy nghiệm về bản tánh mà họ được giới thiệu.
Hãy xác định rằng tất cả chỉ là tự thân-hình ảnh,
Tất cả đều là ngươi, không tách biệt khỏi ngươi.
Vậy hãy quyết định rằng sinh tử và niết bàn là chính tâm ngươi.
Hãy siêng năng tụng niệm OM MANI PADME HUNG.
Không phải ngươi đã thấy năng lực lợi ích của việc tụng niệm mantra hay sao?
Đừng quên tất cả những thông điệp này,
Hãy kể với mọi người về những chuyện ngươi đã chứng kiến ở đây.

Vị Pháp Vương hướng dẫn Chokyi trở về nhà. Sau đó, đối diện với con đường hẹp xuyên qua núi tuyết mà bà đã đi vào, Chokyi bắt đầu bước đi với suy nghĩ trở về nhà. Ngay sau đó bà thấy mình ở nhà. Giường bà bị ngăn bằng một tấm chăn. Trong giường bà thấy xác một con rắn chết, được mặc quần áo như bà đã thấy trước đó.

Chokyi bối rối với gia đình bà, nghĩ rằng, “Họ biết ta sợ rắn nên mặc quần áo cho xác con rắn.” Bà quyết định, “Bây giờ, dù sợ hay không, mình phải cởi quần áo và lôi con rắn này ném ra ngoài cửa.” Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm quần áo cởi ra. Cảm giác như thể bị té đưa lưng xuống, nhưng ngay sau đó bà thấy chính mình trong thân, như thể thức dậy sau giấc ngủ.

Chokyi hít một hơi dài, và người con trai lớn kêu lên, “Ama! Ama!” bà nói, “Ah.” Con bà la lớn, “Ama sống lạiMọi người hãy đến đây!” Tất cả họ hàng chạy đến bà. Chokyi kể lại mọi sự kiện đã đi qua, và mọi người khóc. Nhớ lại những đau khổ của cõi địa ngục, bà cũng khóc. Dần dần bà hồi phục sức khỏeHọ hàng bà làm một số cúng dường cho những vị lama và trở về nhà của họ.

Vào mùa thu, bà tài trợ cho nhiều người tụ hội để tụng niệm OM MANI PADME HUNG một tỷ lần. Bà cũng cúng dường cho nhiều tu viện.

Chokyi gởi chồng và con với thực phẩm dự trữ để đi đến một nơi ở đó họ có thể thực hành Giáo Pháp. Bà và con gái trở thànhni cô và du hành đến những nơi hành hươnghoàn toàn dâng hiến cuộc sống cho thực hành Pháp bằng việc bỏ lại phía sau tất cả hoạt động phàm tục.

Ngài Lingza Chokyi kết luận chuyện kể delog của bà:

Tôi đã chứng kiến cõi địa ngục trong con người. Sự chọn lựa hạnh phúc hay đau khổ trong tay họ. Khi lựa chọn giải thoát, đừng lo nghĩ quá nhiều về những gì mình muốn trong cuộc sống này. Bạn phải cố làm những gì tốt nhất cho kiếp sống tới của bạn.
Điều tốt nhất để làm là từ bỏ những yêu thích về cuộc sống này. Hãy cố nhận ra thật tánh của tâm bạn. Nó thật hùng mạnh đáng ngạc nhiên.
Điều tốt thứ hai là kềm chế không vi phạm bất cứ hành động bất thiện nào, dù thân, khẩu, hay ý, và cống hiến mọi nỗ lực của bạn cho hoạt động Giáo Pháp.
Tối thiểu, nên cúng dường một số tài sản cho những vị thầy, cộng đồng Giáo Pháp, và chia sẻ với những người nghèo.

Harold Talbott 
Chết an bình, tái sinh hạnh phúc
Bản dịch Việt ngữ: Tuệ Pháp