2017-07-11-Disket-GG06_A7R3891

Tâm thức và Niết bàn

Trong tập luận Hướng dẫn vào con đường Trung đạo, do vị thầy người Ấn là Nguyệt Xứng (Chandrakirti) trước tác, đã mô tả tâm thức, nguồn gốc phát sinh ra khổ đau, bằng một câu như sau: “Một tâm thức bất trị đưa đến bấn loạn tâm thần thúc đẩy một cá nhân phạm vào những hành vi không tốt, các hành vi ấy sẽ tạo ra một môi trường tiêu cực mà cá nhân ấy phải gánh chịu trong sự sống”.

Muốn tìm hiểu bản chất của thể dạng không khổ đau mà Phật giáo gọi là niết bàn (nirvana), ta phải đọc thật kỹ đoạn sau đây trong tập luận nổi tiếng Nền móng của con đường Trung đạo do Long Thọ (Nagarjuna) trước tác. Trong đoạn này Long Thọ đặt sự hiện hữu không tĩnh thức (tức trong vòng luân hồi) và sự hiện hữu tĩnh thức (cõi niết bàn) ngang hàng với nhau. Ông muốn nhắc nhở chúng ta không nên tin vào sự hiện hữu hàm chứa một bản chất tự tại và căn bản, dù sự hiện hữu ấy có tỉnh thức hay không. Thể dạng này hay thể dang kia đều hoàn toàn trống không về hiện thực. Thấu triệt và cảm nhận được Tánh không hay chăng mới chính là yếu tố để phân biệt hai thể dạng giác ngộ hay không giác ngộ. Niết bàn chẳng qua chỉ là sự hiểu biết và cảm nhận Tánh không của luân hồi. Vì thế luân hồi và niết bàn chỉ là hai thể dạng khác nhau ngự trị trong cùng một tâm thức mà thôi.

Sau phần nhập môn trên đây, người ta có quyền tự hỏi phải chăng Phật giáo chủ trương tất cả chỉ là phóng ảnh của tâm thức. Thật vậy, đấy là một câu hỏi then chốt mà các vị đại sư đã đưa ra nhiều cách giải đáp khác nhau suốt trong quá trình lịch sử lâu dài của Phật giáo. Một mặt, sau khi đã phân tích đến cùng cực, một số vị chủ trương tất cả chỉ là phóng ảnh của tâm thức, kể cả sự cảm nhận của ta về khổ đau và hạnh phúc. Trong khi một số các vị khác lại phủ nhận quan điểm có tính cách chủ quan quá mức và quyết liệt đó. Nhóm thứ hai khẳng định rằng dù cho ta có thể xem tất cả mọi hiện tượng, trong đó gồm có cả những cảm nhận của ta, là những tạo tác tâm thần, thì điều đó cũng không có nghĩa là tất cả đều là tâm thức. Luận cứ mà các vị này nêu lên là cần phải giữ một mức độ khách quan nào đó và nên tin rằng các vật thể hiện hữu thực sự. Theo họ, ngay cả khi tri thức dự phần vào việc tác tạo ra sự cảm nhận của ta về thế giới này, thì vẫn có một thế giới khách quan. 

Đối với khái niệm về niết bàn của Phật giáo, tôi muốn lưu tâm quý vị một điều như sau. Long Trí (Nagabudhi), một đệ tử của Long Thọ đã nhấn mạnh rằng: “Người ta không thể trao tặng quý vị sự Giác ngộ, hay là sự Giải thoát tâm linh, như đem cho một món quà. Hạt giống của Giác ngộ là của quý vị, nó không thuộc về bất cứ người nào khác”. Điều đó ngụ ý rằng tiềm năng của Giác ngộ hiện hữu một cách tự nhiên nơi mỗi con người của chúng ta. Vì thế Long Trí có lần đã hỏi thầy mình như sau: “Niết bàn là gì? Giác ngộ là gì? Giải thoát tâm linh là gì?”. Long Thọ trả lời như sau: “Sự Giác ngộ đích thực chẳng phải là gì khác hơn là sự thực hiện toàn vẹn bản thể của chính mình”. Bản thể của chính mình Phật giáo gọi là “ánh sáng trong suốt và tối hậu” hay “thể dạng rạng rỡ tự nhiên của tâm thức”. Người ta sẽ đạt được thể dạng của một vị Phật, hay sự Giác ngộ, khi nào bản thể của tâm thức đã hoàn toàn quay về với hiện thực hay đã thực hiện được hiện thực một cách hoàn hảo.

Vì thế, khi nói đến Giác ngộ và niết bàn, tức cấp bậc thực hiện cuối cùng trong việc tu tập tâm linh, có nghĩa là đề cập đến một thể dạng của tâm thức. Cũng thế, những bấn loạn tâm thần cản trở sự thực hiện bản thể Giác ngộ, cũng được xem là những thể dạng tâm thần – nhưng là những thể dạng bấn loạn. Một cách chính xác hơn, đó là những bấn loạn đã ăn sâu vào những cảm nhận sai lầm liên quan đến cái tôi và thế giới này. Phương cách duy nhất giúp biến cải những cảm nhận đó là cách trau dồi sự quán thấy xuyên thẳng vào bản thể của tâm thức.

Tóm lại, theo lời giảng huấn của Đức Phật, một bên là thể dạng tâm thần bất trị liên kết với khổ đau, và một bên là thể dạng tâm thức đã được khắc phục đem đến hạnh phúc và sự giải thoát, hai thể dạng ấy đều ngang hàng nhau. Đây là một trong những điểm quan trọng cần phải thấu triệt. 

Đức Dalai Lama XIV