om-mani-padme-hum-stephen-humphries 1

Lý tưởng của người Bồ Tát – Virya hay nghi lực hướng vào điều thiện

Nếu muốn phẩm tính kshanti biểu trưng đầy đủ được ý nghĩa của nó (xin nhắc lại kshanti có nghĩa là sự kiên nhẫn hay nhẫn nhục, là một trong sáu phẩm tính hoàn hảo / paramita / ba-la-mật. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính kshanti là “nhẫn”, thế nhưng thật ra phẩm tính này gồm có ba khía cạnh hay ý nghĩa khác nhau: sức chịu đựng, lòng khoan dung và khả năng thụ cảm, cả ba đặc tính này biểu trưng cho “nữ tính” trong việc tu tập), thì phải nêu lên thêm một phẩm tính khác là virya, là phẩm tính thứ tư trong sáu phẩm tính paramita (virya có nghĩa là nghị lực hay sức cố gắng / energy, nếu kshanti biểu trưng cho nữ tính thì virya biểu trưng cho nam tính. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính virya là “tinh tiến” hay “tinh tấn” (精進), tinh có nghĩa là tinh lọc, tinh khiết, tấn hay tiến có nghĩa là tiến tới, cách dịch này dường như không được sát nghĩa lắm). Chữ virya có nghĩa là sức mạnh, sự cường lực (vigor, virility / sự rắn rỏi) trong hành động. Các chữ virility, vigor (cường mạnh, cường lực) và virtue  (đạo đức) trong tiếng Anh và các chữ virilité và vertu trong tiếng Pháp, cùng với chữ virya trong tiếng Pali và tiếng Phạn, phát sinh từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Ấn-âu (Indo-European language, là một nhóm ngôn ngữ xuất phát từ vùng Trung đông, và cũng là nguồn gốc chung của các ngôn ngữ Ấn độ, trong đó kể cả các cổ ngữ Pali và Phạn, và cả các ngôn ngữ Tây phương ngày nay. Tiếng Pali và tiếng Phạn do đó có nhiều điểm khá tương đồng với các ngôn ngữ Tây phương trên tất cả các phương diện: từ nguyên ngữ pháp và văn phạm. Vì thế việc tìm hiểu Phật giáo dựa các ngôn ngữ Tây phương tương đối thích nghi hơn so với Hán ngữ tượng hình hoàn toàn khác biệt với ngôn ngữ Ấn-Âu). Nguyên nghĩa của chữ virya là sức mạnh (năng lực, nghị lực / energy). Đặc biệt trong lĩnh vực Phật giáo và theo cách định nghĩa của Shantideva (Tịch Thiên) thì chữ virya có nghĩa là “nghị lực hướng vào điều thiện” (nghị lực đối với việc tu tập là để hướng vào điều tốt, sự tích cực, trong khi đó nghị lực phát huy trong sự sinh hoạt của con người nói chung có thể hướng vào các đối tượng đủ loại, trong đó kể cả các điều ác).  

Điều thiện (sự tốt lành / good, goodness, right) ở đây có nghĩa là sự giác ngộ hướng vào sự an lành của tất cả chúng sinh. Virya không hề biểu trưng cho sự sinh hoạt thường tình (trong cuộc sống thường nhật chúng ta cũng có thể phát động một sức mạnh, một nghị lực đáng kể, thế nhưng nghị lực hay sức mạnh đó không có gì là Phật giáo cả). Thí dụ chúng ta hết quay sang phải lại quay sang trái, lo toan hết chuyện này đến chuyện khác, bận bịu suốt ngày, chúng ta có thể làm việc thật nhiều, thế nhưng sự bận bịu đó không nhất thiết nói lên phẩm tính virya. Trong tập luận “Vòng hoa trân quý của sự Giải thoát” (The Jewel Ornament of Liberation, tiếng Tây Tạng là/ “Dhagpo Thargyen”, là một tập luận Đại thừa rất nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng, nêu lên các giai đoạn thăng tiến tuần tự, đưa đến sự Giác ngộ cuối cùng)  Gamposa (còn gọi là Dhakpo Rinpoche, 1079-1153, tác giả của tập luận là đệ tử của vị đại sư Tây Tạng Milarepa / Mật lặc Nhật-ba) – là một vị đại sư Tây Tạng thuộc học phái Kagyupa (Ka-nhĩ-cư) – định nghĩa sự lười biếng là tình trạng lúc nào cũng bận rộn “chống lại các kẻ thù” của mình hoặc tìm cách “vơ vét của cải” (câu này rất lắc léo: theo nhà sư Gamposa thì sự lười biếng có nghĩa là mưu mô triệt hạ các kẻ thù của mình hoặc tìm cách vơ vét của cải). Và nếu việc “chiến thắng kẻ thù” thuộc lĩnh vực chính trị (tức là hăng say trong việc triệt hạ các đối thủ của mình) và sự “vơ vét của cải” (mưu mô, gian xảo, tham lam và hám lợi) thuộc lĩnh vực kinh doanh, thì theo Gamposa tất cả các thứ ấy, ngoài vẻ bận rộn bên ngoài, nhất thiết chỉ là những sự lười biếng, không phải là virya nêu lên trong Phật giáo, với ý nghĩa là sức mạnh hay nghị lực (theo nhà sư Gamposa thì việc sử dụng sức mạnh và nghị lực để thanh toán các kẻ thù của mình trong lĩnh vực chính trị, hoặc để chiếm đoạt của cải trong lĩnh vực kinh doanh, chỉ là những sự sinh hoạt tầm thường, là những sự “lười biếng”. Nghị lực và sự cương quyết chủ trương bởi Phật giáo là để mang lại tình thương yêu và sự an lành cho tất cả chúng sinh).    

Virya là phẩm tính vô cùng quan trọng. Dưới một góc nhìn nào đó thì phẩm tính này liên hệ đến tất cả các paramita khác (thuật ngữ paramita / ba-la-mật sẽ được giải thích thêm trong phần ghi chú dưới đây).  Nếu muốn tỏ ra hào hiệp (tức là paramita thứ nhất, kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính này là “bố thí ba-la mật”) thì phải có một số vốn liếng nghị lực nào đó (hầu giúp mình đủ sức hy sinh một phần những gì mình có để hiến dâng cho kẻ khác). Muốn giữ gìn giới luật (paramita thứ hai: “giới ba-la-mật”) thì cũng phải cần đến nghị lực. Muốn thiền định (paramita thứ năm / dhyana-paramita / “thiền ba-la-mật”) thì cũng cần phải có nghị lực. Muốn phát huy trí tuệ  (paramita thứ sáu: prajna paramita / “huệ ba-la-mật”) thì cũng cần phải tạo được một sự tập trung nghị lực càng cao siêu và sâu xa hơn tất cả các hình thức nghị lực trên đây. Vì thế paramita này (tức là virya) giữ một vai trò vô cùng quan trọng, và cũng là một vấn đề (điểm) then chốt nhất trong cuộc sống tâm linh.

Vấn đề là như thế này: thí dụ chúng ta tạo ra cho mình một lý tưởng nào đó thuộc lĩnh vực tâm linh, chẳng hạn như trở thành một thể dạng (một người bồ-tát chẳng hạn) hoặc đạt được một sự cảm nhận (sự giác ngộ chẳng hạn) hay một mục đích mang tính cách lý tưởng. Lý tưởng đó có thể là lý tưởng của người bồ-tát, một hình thức lý tưởng mà chúng ta có thể hình dung được thật minh bạch trong tâm trí mình. Thế nhưng sự hình dung về lý tưởng đó dù có minh bạch đến đâu, và dù mình có cố gắng thực hiện lý tưởng đó bằng cách này hay cách khác, và dù cho sự cố gắng đó có thành thật đến đâu đi nữa, thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ đạt được nó cả. Và dù cho mình vẫn luôn ôm chặt lý tưởng đó qua những năm tháng dài hay hàng thập kỷ, thì dường như mình vẫn chưa tiến lên được một bước nào cụ thể cả. Trên thực tế, dường như chúng ta vẫn còn đang ở điểm khởi hành (vẫn tiếp tục nêu cao và thực hiện lý tưởng của mình, thế nhưng dường như mình vẫn dậm chân tại chỗ, vẫn loay hoay với lý tưởng đó, chẳng làm được gì thiết thực cho kẻ khác, và mình cũng chẳng đạt được một sự thăng tiến tâm linh nào cả). Tại sao lại như vậy?      

Trên phương diện lý tưởng chúng ta hiểu rõ những gì mình cần phải làm. Thỉnh thoảng và tùy theo từng lúc, chúng ta phát động được một sự cố gắng nào đó, có lúc kéo dài được suốt một giờ hay hai giờ (chẳng hạn như phát động tình thương yêu và lòng từ bi trong những lúc suy tư hay thiền định). Thế nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Điều đó chẳng khác gì như chúng ta đứng dưới chân ngọn Kanchenjunga (là một ngọn núi trong dãy Hy-mã-lạp-sơn, từng được xem là cao nhất thế giới, trước khi ngọn Everest được đo đạc chính xác và được xem là ngọn núi cao nhất thế giới. Ngọn Kanchenjunga ngày nay chỉ đứng vào hàng thứ ba), ngước nhìn lên đỉnh núi tuyết phủ đầy. Hai mươi năm trôi qua, khi nhìn lại thì thấy mình vẫn còn đứng nguyên tại chỗ, và vẫn còn tiếp tục nhìn lên đỉnh núi. Mình nghĩ rằng mình đã trèo lên được vài bước, thế nhưng đỉnh núi vẫn cứ sừng sững hơn bao giờ cả.

Tại sao chúng ta lại không tạo được một sự thăng tiến cụ thể nào? Câu trả lời thật hết sức hiển nhiên: chúng ta không hề phát động được một chút virya (nghị lực) nào cả. Thế nhưng tại sao lại như vậy? Tại sao chúng ta lại không có một chút nghị lực nào, một sức năng động nào giúp mình sống một cuộc sống tâm linh đúng nghĩa của nó, hầu thực hiện lý tưởng của mình? Thật ra chúng ta không thiếu nghị lực, chúng ta là hiện thân của nghị lực, là kết tinh của nghị lực, trên thân thể và cả trong tâm thức, kể cả trên phương diện tâm linh (nguyện ước của người bồ-tát). Toàn thân thể và cả tâm thức mình đều là hiện thân của nghị lực, chúng ta là nghị lực. Thế nhưng tiếc thay nghị lực đó lại thường ở trong tình trạng bị phân tán.   

Một dòng nước lũ đổ vào hàng ngàn kinh rạch sẽ mất đi sức mạnh của nó, cũng vậy nghị lực hướng vào vô số các đối tượng khác nhau sẽ khiến sức mạnh của nó bị phân tán. Tuy nhiên một chút nghị lực cũng có thể còn sót lại giúp chúng ta hướng vào việc tu tập, thế nhưng phần lớn nghị lực của chúng ta thì lại dồn vào các sinh hoạt đi ngược lại với việc tu tập của mình, khiến mình cảm thấy bị rách nát và kiệt quệ. Vấn đề thiết thực và then chốt nhất trong việc tu tập tâm linh là phải làm thế nào để bảo toàn và hợp nhất (unify / kết hợp) nghị lực của mình. Nếu muốn thực hiện được điều đó thì trước hết phải ý thức được nghị lực của mình bị phân tán như thế nào. Thông thường chúng ta cảm thấy nghị lực của mình bị ngăn chặn (tắc nghẽn), thất thoát, phí phạm hoặc quá mộc mạc (thô thiển), thiếu hẳn sự tinh tế cần thiết (thiếu sự sâu xa và bén nhạy không giúp mình tập trung vào các sự suy nghĩ sâu xa và các hành động phù hợp hơn với lý tưởng của mình). .  

Nghị lực bị ngăn chặn

Nghị lực có thể bị ngăn chận (blocked / tắc nghẽn, bế tắc) vì nhiều lý do. Chẳng hạn như nền giáo dục mà chúng ta thừa hưởng dạy chúng ta phải đè nén, che dấu các xúc cảm, không được phép tỏ bày hay phát lộ chúng ra ngoài. Hoặc cũng có thể là vì chúng ta dành quá nhiều thì giờ vào các việc lặt vặt, không cần đến một chút cố gắng nào cả (các sự suy nghĩ hời hợt và các công việc theo thói quen khiến các phản ứng của chúng ta trở thành máy móc, tạo ra một cuộc sống dễ dãi, khiến chúng ta không còn ý thức được là trong cuộc sống đôi khi phải phát huy sự cố gắng để làm một cái gì đó có ý nghĩa hơn, hoặc phải tập trung tâm thức để tìm hiểu và suy nghiệm về một một ý niệm cao cả và to rộng hơn. Đấy là nguyên nhân khiến nghị lực của mình bị chôn vùi và quên lãng). Nghị lực cũng có thể bị ngăn chặn vì chúng ta không tạo được cho nó một lối thoát tích cực và sáng tạo. Nghị lực trong lĩnh vực xúc cảm cũng có thể bị tắc nghẽn bởi các sự thua thiệt (mất mát, đau buồn), tuyệt vọng, lo sợ bị thương tổn, hoặc bị ảnh hưởng bởi các cảnh huống bất thuận lợi, hoặc cũng có thể do nền nền giáo dục không thuận lợi, nhất là các hình thức tôn giáo cứng nhắc và nặng nề. Tóm lại các nguyên nhân đó khiến nghị lực của chúng ta trở nên khô cằn và hóa đá bên trong chính mình. Ngoài các trường hợp trên đây, nghị lực cũng có thể bị tắc nghẽn đơn giản chỉ vì chúng ta không tạo được cho mình một sự cảm thông đích thật (real communication, sự kết nối, trao đổi và tương giao với kẻ khác, một sự mở rộng tâm thức mình với sự sống và thiên nhiên). Sự cảm thông đích thật đó sẽ tạo ra một sự kích hoạt (dynamize) tương tự như như một luồng điện (đánh thức mình trước môi trường, sự sống và con người nói chung).  

Nghị lực bị phung phí

Thật hiển nhiên nghị lực hướng vào các xúc cảm là một sự thất thoát (xúc cảm làm tiêu hao nghị lực, có thể đưa đến tình trạng hoang mang và bất định, không chủ động được chính mình. Xin nhắc lại: sự thanh thản, bình lặng và thăng bằng của tâm thức / upekkha / equanimity, kinh sách Hán ngữ gọi là “xả”, là một trong bốn thể dạng vô biên của tâm thức, thể dạng tâm thức đó là một phương tiện giúp chúng ta bảo toàn nghị lực. Bốn thể dạng vô biên tiếng Pali gọi là Apparamanna, kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ vô lượng tâm, gồm có: 1- Metta (tình thương yêu), 2- Karuna (lòng từ bi), 3- Mudidita (niềm hân hoan), 4- Upekkha (sự thanh thản), thế nhưng chúng ta vẫn cứ để cho nó bị thất thoát (xúc cảm dù là dưới thể dạng nào đều làm cho nghị lực bị hao hụt), Sự thất thoát nghị lực vì xúc cảm xảy ra bằng nhiều cách, nhất là trong các trường hợp liên quan đến các xúc cảm tiêu cực. Khía cạnh tiêu cực của xúc cảm – chẳng hạn như sợ hãi, hận thù, giận dữ, ác tâm, hiềm khích (antagonism), ganh tị, xót thương cho thân phận mình (self pity), hối lỗi, ân hận, lo âu – sẽ làm cho nghị lực bị phung phí với một tốc độ kinh hoàng. Sự phung phí đó không phải chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra, hãy cứ nhìn lại 24 giờ qua thì cũng đủ thấy chúng ta đã thả lỏng cho các thể dạng tâm thần tiêu cực tung hoành bao nhiêu lần. Điều đó chẳng khác gì như nghị lực bị mất máu. Ngoài ra cũng có các thứ xúc cảm tiêu cực hiện ra qua các cung cách phát ngôn, chẳng hạn như càu nhàu, chê trách, không ngớt phàn nàn. Các sự thất thoát đó khiến nghị lực không còn sót lại bao nhiêu hầu giúp mình hướng vào các mục đích tâm linh.

Nghị lực quá mộc mạc và thô thiển

Điểm thứ ba là nghị lực của các xúc cảm thường không giúp được gì nhiều cho cuộc sống tâm linh (việc tu tập), chẳng qua vì nó quá thô thiển và mộc mạc. Đối với cuộc sống tâm nghị lực cũng phải thuộc vào lĩnh vực tâm linh. Chúng ta không thể thiền định bằng các bắp thịt của mình, dù chúng có mạnh và rắn chắc đến đâu cũng vậy, thiền định cần đến một cái gì đó tinh tế hơn nhiều.

Có nhiều cách giúp chúng ta giải thoát, bảo toàn và tinh lọc nghị lực. Các sự bế tắc đều có thể giải tỏa được bằng cách trau dồi sự ý thức về các thể dạng tâm thần của mình, chẳng hạn như hướng vào các công việc mang tính cách sáng tạo thật sự (mang lại những gì mới lạ hơn cho cuộc sống của mình) hoặc ít ra cũng phải mang lại một sự ích lợi nào đó, hoặc cũng có thể bằng cách phát động khả năng truyền đạt của mình (communication / khả năng cảm thông và tương giao với kẻ khác, với chúng sinh và cả môi trường, Các xúc cảm ở thể dạng tinh tế có thể giúp chúng ta “trò chuyện” – nếu có thể nói như thế – với một con sâu, hoặc “trao đổi” sự suy nghĩ và các cảm nhận của mình với thiên nhiên và vạn vật). Thật hiển nhiên, phép thiền định có thể giúp một số các sự bế tắc khai thông một cách tự nhiên.

Nếu muốn cho sự phung phí nghị lực phải dừng lại thì trước hết phải ý thức được tình trạng mình đang bị các xúc cảm tiêu cực đó chi phối như thế nào, hầu phát động các xúc cảm đối nghịch để chống lại: chẳng hạn như tình thương yêu sẽ hóa giải hận thù, sự tự tin sẽ hóa giải sự sợ hãi, v.v. Đối với các cách phát ngôn thúc đẩy bởi các xúc cảm tiêu cực thì phải quyết tâm loại bỏ ngay, chẳng có cách nào khác hơn, bởi vì các cách phát ngôn tiêu cực đó sẽ chẳng bao giờ mang lại cho mình những câu hồi đáp thân thiện cả. Ngoài ra cũng có một phương pháp hữu hiệu khác có thể giúp chúng ta bảo toàn nghị lực, đó là cách tạo ra cho mình những giây phút yên lặng trong cuộc sống. Một phần thật lớn nghị lực của chúng ta thường bị thất thoát qua ngôn từ (những người nói quá nhiều sẽ đánh mất hết sự tập trung nghị lực, không còn suy nghĩ được nữa. Trong khi ăn chẳng hạn, nhiều người nói chuyện huyên thuyên khiến không biết mình đang nhai những thức ăn gì. Thế nhưng một người lầm lì không nói năng gì cả cũng là một sự khép kín, tạo ra một sự bế tắc nghị lực. Trong khi ăn nói thật ít, hoặc không nói gì cả, chỉ chú tâm vào ý nghĩa của từng miếng ăn, đồng thời mở rộng tâm thức để nghĩ đến các chúng sinh khác đang đói nhưng không có gì để ăn, hoặc hướng vào vạn vật và thiên nhiên để ý thức nguồn gốc và ý nghĩa của miếng ăn, thì đấy sẽ là cách phát động và tinh khiết hóa nghị lực).  Nếu giữ được sự yên lặng trong một khoảng thời gian – vài phút, vài giờ, hay suốt một ngày – đơn độc trong khung cảnh của gian nhà mình, thì nghị lực sẽ tích tụ một cách thật tuyệt vời bên trong con người của mình, nhờ đó mình sẽ cảm thấy trầm tĩnh, an bình, ý thức và tập trung hơn. Thể dạng đó cũng tương tự như một luồng nghị lực tươi mát, trong sáng dâng lên bên trong chính mình. Luồng nghị lực đó rất tinh khiết bởi vì nó được tích tụ bên trong chính mình, không phát lộ ra bên ngoài qua bất cứ một sự biểu lộ nào (ngược lại nếu càng chạy ngược chạy xuôi, càng gặp hết người này đến người khác, càng ăn nói huyên thuyên, thì đấy sẽ là cách đánh mất chính mình. Tuy nhiên cũng có nhiều người ngồi yên vài phút, không thấy có ai hỏi han hay gọi điện thoại, hoặc không nhận được tin nhắn hay điện thư, thì cảm thấy sợ hãi, hoang mang và trống trải. Họ là những người đã đánh mất chính mình. Nghị lực trong tình trạng luôn hướng vào các đối tượng bên ngoài sẽ bị thất thoát bởi sự chi phối và thu hút của các đối tượng đó).

Đức Urgyen Sangharakshita

Việt dịch: Hoàng Phong

Nguồn: Lý tưởng của người Bồ Tát