Tulku-Thondup-Rinpoche

Đánh giá sự tiến bộ của việc thực hành Giáo pháp

Để đánh giá sự tiến bộ tâm linh của chúng ta, điều quan trọng là nhận ra mục tiêu của mình, con đường dẫn đến mục tiêu đó và nền tảng hiện tại chúng ta đang đứng trên con đường của cuộc hành trình tâm linh chúng ta.

Trong Phật giáo có rất nhiều con đường rèn luyện tâm linh. Mỗi con đường đều có mục đích, ý định, và lợi ích duy nhất của nó cho chính chúng ta và người khác. Nhưng để có thể được lợi ích thật sự, việc hiểu được mục đính chính bên dưới những thực hành này là rất quan trọng. Nếu chuyển hướng sai tại một ngã tư đường, mỗi bước chúng ta đi sẽ làm nơi đến của chúng ta bị xa cách hơn. Tương tự như vậy, nếu không nhận ra bản tánh mục đích tâm linh và mục tiêu chúng ta  nhắm đến là gì, thì thực hành của chúng ta sẽ không có lợi ích, ít nhất là không giúp ích như nó có thể.

Trọng tâm chính của tất cả rèn luyện trong Giáo Pháp là để lợi ích cho tâm chúng ta. Điều này nghe có thể ích kỷ, nhưng không phải vậy. Trừ khi cải thiện chính mình chúng ta không thể thực sự giúp đỡ người khác hoặc thực hiện bất cứ hoạt động Giáo Pháp nào. Không được trang bị, chỉ khao khát giúp người khác có thể giống như thực hành bắn cung mà không biết cách bắn ra sao hoặc không có cung, hay mũi tên. Thậm chí nếu có đặt hàng trăm mục tiêu chúng ta cũng không trở thành một cung thủ khéo léo được.

Do đó, tôi không nói những gì chúng ta nên tập trung vào chính mình là như sự tự kỷ-trung tâm. Đúng hơn, tôi nói rằng chúng ta nên hướng mọi cố gắng trong thực hành đến việc lợi ích cho tâm thức chúng ta, với một quan điểm rộng mở với người khác. Chúng ta càng thuần hóa những niệm tưởng hoang dã và cảm xúc hỗn loạn của chính mình, chúng ta càng trở nên an bình, giác ngộ, và bi mẫn, và trở thành người giải thoát khỏi sự ích kỷ. Thế nên, mục tiêu trong rèn luyện tâm nên là sự chuyển hóa chúng thành tâm giác ngộ vì lợi ích của những chúng sanh đang sống.

Những lợi ích của thực hành thiền định là không giới hạn với sự hiểu biết dựa trên trí năng hay khái niệm. Cũng như chúng phải bao gồm cảm giác của chúng ta. Điểm quan trọng nhất của thực hành Pháp là để rèn luyện hay hoàn thiện tâm thức bằng việc đem nó đến một trạng thái của an bình, buông xả, và trong sáng cực điểm, bảo vệ nó khỏi cảm xúc phiền não. Để đạt được trạng thái này, chúng ta phải trau dồi cảm giác và kinh nghiệm an bình trong tâm mình.

Tuy nhiên, vấn đề chúng ta có với thực hành Pháp là không hòa nhập sự hiểu biết của ta vào cuộc sống và không áp dụng những gì chúng ta đã học. Không may, sự hiểu biết của chúng ta thường trụ trong lãnh vực của tưởng tượng, ở nơi nào đó ngoài kia. Sự hiểu biết trở thành đối tượng khác của tâm, không được áp dụng vào chủ thể, là chính chúng ta. Đó là điều tại sao chúng ta thường muốn biết nhiều thứ, học nhiều môn. Nhưng ngay cả nếu tiêu tốn mười hay hai mươi năm trong việc học hay thực hành, chúng ta có thể chẳng đạt được gì hơn là một hiểu biết giả tạo, một sự quen thuộc mơ hồ với đối tượng của việc học chúng ta.

Trong lúc mục đích của chúng ta là giác ngộ, đó là điều gì đó không thể hiểu được vào lúc này, và nó cũng không dễ giải thích. Nhưng, trong một cách đơn giản, mục đích của thực hành là để đạt đến tâm an bình cao nhất, đó là trạng thái buông xả nhất, kiên định mạnh mẽ, và viên mãn. Nếu không cải thiện tâm chúng ta, thì bất chấp bao nhiêu hiểu biết chúng ta có về mười địa, năm con đường, nghi lễ, triết học, v.v… tất cả chúng sẽ trở thành đối tượng mà chẳng bao giờ chúng ta áp dụng vào chính mình. Nó có thể rất đơn giản, giống như khi chúng ta quay mặt về hướng đúng – thì mỗi bước đi sẽ đem chúng ta tới gần nơi đến. Tương tự như vậy, khi bắt đầu thực hành – bất cứ thực hành nào chúng ta chọn – nếu sử dụng nó để lợi ích và rèn luyện tâm, thì thậm chí nếu nó là một thực hành nhỏ hay đơn giản, ngay cả nếu nó kéo dài không hơn một giờ hay chỉ một ngày, nó vẫn sẽ giúp ích chúng ta. Nhưng nếu chuyển thực hành của chúng ta thành một đối tượng, một vui thích dễ chịu ngoài kia, nó sẽ chẳng thực sự lợi ích ta. Chúng ta có thể trở thành nhà văn hay học giả, có khả năng nhắc lại như vẹt nhiều thứ khác nhau; mà điều này chẳng thực sự giúp ích gì cho chúng ta.

Trong cuộc đời của Đức Phật, một trong mười sáu vị Arhat (A La Hán) hay hiền triết, tên là Chullapanthaka,100 vô cùng trì độn và không thể nhớ ngay cả bốn dòng giáo lý. Do vậy, Đức Phật hướng dẫn ông quét bụi đại sảnh của tập thể và lau chùi dép của các vị bhikshu (tỳ khưu) trong lúc đó lập đi lập lại rằng, “Bụi đã được tẩy sạch. Nhiễm ô đã được tẩy sạch.”

Chullapanthaka tiêu tốn nhiều năm chỉ tập trung về việc lau chùi và lập lại cùng câu kệ trên. Có một ngày, ông tự suy nghĩ: “Ý nghĩa của câu Đức Phật nói ‘quét bụi’ và ‘tẩy sạch cảm xúc’ thực ra là gì? Có phải bụi là nhiễm ô của tâm thức hay của đại sảnh và những đôi dép?” vào chính lúc đó, những dòng kệ sau đây xuất hiện trong tâm ông:

Đây không phải là bụi của thế gian, mà là bụi của tham, sân, và si.
Bụi là tên gọi của tham, sân, và si, và chẳng phải của thế gian.
Người uyên bác là người đã tẩy sạch bụi
Đạt được tự tin trong giáo lý của Đức Phật.

Lập tức ông trở thành một Arhat, một bậc giác ngộ. Tại sao? Không vì ông có hàng trăm kỹ thuật khác nhau. Không vì ông là một đại học giả và tìm thấy con đường mật truyền để đạt tới mục đích. Mà đúng hơn, là sự gìn giữ tâm ông trong một trạng thái đơn giản, an bình, và hoan hỷ tột độ, và làm công việc công đức, ông tập trung một điểm với sự tỉnh giác về những gì ông đang làm. Ông áp dụng toàn bộ tâm trí vào bất cứ những gì thân và tâm ông làm, nên cuối cùng ông được giác ngộ.

Để được giác ngộ thì không cần thiết phải biết nhiều thứ, cũng không cần phải làm nhiều loại thực hành. Nếu nó đơn giản thì chẳng có vấn đề gì. Có lẽ tốt hơn nên giữ nó đơn giản – chúng ta càng làm lại càng rối. Do vậy, hãy giữ nó đơn giản, điều quan trọng nhất là áp dụng nó vào tâm bạn. Nếu biết cách áp dụng thực hành của chúng ta một cách thích hợp và nếu có một kinh nghiệm thiền định, sức mạnh, hay một số loại nhận biết, thì bước quan trọng kế tiếp là phát triển nhận thức thanh tịnh. Phần lớn mục đích thực hành của đạo Phật dù hiển giáo hay mật giáo (giáo tông hay mật tông) là để tịnh hóa nhận thức của chúng ta. Thường chúng ta thấy và suy nghĩ trong giới hạn nhị nguyên, với một chủ thể và đối tượng. Chúng ta thường nghĩ, “Điều này là tốt,” “Điều này là xấu,” “Bà hay ông ấy là bạn của tôi,” “Bà hay ông ta là kẻ thù của tôi.” Vì sự phân biệt liên tục này chúng ta kinh nghiệm hạnh phúc và phiền muộn, và tạo ra nghiệp thiện và ác.

Tất cả điều này được đưa vào vận hành vì nhận thức sai lầm, vì phân biệt theo cách sai lạc của chúng ta. Dĩ nhiên, đôi khi có căn cứ vững chắc về những dán nhãn phân biệt của chúng ta như khi bị bệnh hay đói. Nhưng phần lớn thời gian dán nhãn của chúng ta đều là sự tạo tác của tâm mình. Ví dụ, nếu ông C thấy ông A, ông ta có thể nghĩ, “Ông ta là bạn của tôi,” và cảm thấy hạnh phúc khi thấy ông ấy. Nhưng khi ông B thấy ông A, ông ta có thể nghĩ, “Đó là kẻ thù của tôi,” và ông ta không vui, dù trong mỗi trường hợp đều là một người. Sự đánh giá dán nhãn của chúng ta, “bạn,” hay “thù,” có thể thay đổi từ ngày này sang ngày khác, và cảm giác của chúng ta cũng thay đổi tương ứng, ngay cả dù người ta vẫn tồn tại như nhau. Nguyên nhân là chính nhận thức của chúng ta.

Chúng ta thường xuyên bị thế gian thấm vào qua lăng kính của chính nhận thức mình. Khi mang kính màu tối, mọi sự nhìn đều tối. Nhưng khi đeo kính trắng, thì cũng cùng thế gian đó lại xuất hiện rõ ràng. Đây là điều tại sao chúng ta thay đổi cách nhận thức là quan trọng. Nhận thức thanh tịnh là phương pháp của đạo Phật thấy sự vật một cách tích cực như chúng là.

Như chúng ta biết, nhận thức thanh tịnh có thể diễn dịch ở nhiều trình độ. Trong thực hành mật tông, mọi sự được thấy như một cõi tịnh độ Phật. Hành giả chuyển hóa hiện tượng thành sự hỗ trợ cho thực hành và cuộc sống tinh thần qua nhận thức thanh tịnh. Nhưng điều đó lại là chủ đề khác.

Với chư Phật toàn giác, các Ngài chẳng để ý đến hình dạng, hay thân tướng xuất hiện, nên sẽ không có khái niệm nhị nguyên hay cảm xúc phiền não. Các Ngài sẽ không cảm thấy đau khổ hay khích động.

Với những người tinh thông có nhận biết cao, cũng vậy, hoàn cảnh vật chất có cảm xúc hay khái niệm tiêu cực không tác động đến họ. Các bậc lão luyện có thể nhìn họ giống như trong đau khổ to lớn, nhưng tâm họ sẽ trụ trong thanh thản và hoan hỷ. Trong thực tế, bệnh tật có thể là một nguồn hạnh phúc và an bình cho họ.

Một ví dụ về điều này được cung cấp bởi truyện kể về Ngài Zhang Rinpoche.Một đại La ma và yogi của phái Kagyupa, người đã thực hành đại cực lạc suốt đời Ngài. Có một ngày Ngài đập đầu thật mạnh vào vách động. Ngay cả dù bị chấn thương nghiêm trọng và đầu Ngài chảy rất nhiều máu, Ngài lại cảm thấy cực lạc, không đau đớn. Tại sao? Xét cho cùng Ngài cũng làm bằng máu và thịt như tất cả chúng ta. Lịch sử của Phật giáo Tây Tạng có nhiều vị đại Lama phô diễn phép mầu để ngăn chận và chuyển hóa tai họa xảy đến với các Ngài. Nhưng Zhang Rinpoche lại không cần phô diễn phép mầu để ngăn cản tổn thương. Vì trạng thái tinh thần và nhận thức bên trong Ngài kinh nghiệm cực lạc thay vì đau đớn. Điều này tùy thuộc vào năng lực nhận thức thanh tịnh và sự nhận biết của trí tuệ đại cực lạc của Ngài. Loại kết quả này có thể vượt hơn chúng ta, nhưng tối thiểu chúng ta có thể cố gắng rèn luyện chính mình trong việc thấy mọi người như bạn bè, không phải kẻ thù – không chỉ một hay hai người, mà là mọi người, bằng việc thiền định về lòng bi và các thiền định khác.

Một truyện kể về Ngài Dodrupchen đệ nhất theo tự truyện của Ngài Jigme Gyalwe Nyuku (1765 – 1843) cung cấp một tấm gương hùng mạnh khác về những vị tổ đã giác ngộ chuyển hóa kinh nghiệm của các Ngài. Có lần Ngài Jigme Gyalwe Nyuku du hành từ miền Đông Tây Tạng đến trung tâm Tây Tạng, ở đó Ngài gặp Dodrupchen đệ nhất tại Samye. Vị Dodrupchen đệ nhất gởi Ngài một bức thư cho Jigme Lingpa ở Tsering Jong. Ngài đã diện kiến và tiếp nhận giáo lý từ Jigmed Lingpa và sau đó trở lại gặp Dodrupchen tại Samye. Vào lúc đó Ngài Dodrupchen đã hoàn toàn nổi tiếng nhưng vẫn chưa lừng danh, và Jigme Gyalwe Nyuku mới khoảng hai mươi và chưa nổi tiếng. Họ cùng nhau bắt đầu hành hương đến miền Tây Tây Tạng để gặp một số vị đại Lama.

Một ngày nọ, Dodrupchen nói trở lại Lhasa và sau đó đến Kham. Jigme Gyalwe Nyuku nói, “Không, Ngài không thể đi một mình, tôi sẽ giúp Ngài đến Lhasa.” Họ tranh cãi và cuối cùng đồng ý đi cùng nhau. Dodrupchen bị bệnh trên đường, và Jigme Gyalwe Nyuku mang cả hai túi xách. Khi họ cố gắng vượt qua một ngọn núi cao, Dodrupchen không thể đi trên sườn núi dốc. Họ chỉ còn một ít mỡ động vật, một ít dầu, và chẳng còn tsampa (bột mì nướng, chế độ ăn chủ yếu ở Tây Tạng). Họ phải nghỉ sau khi đi bộ một quãng rất ngắn và chẳng tạo được bất cứ tiến triển nào.

Sau một lúc, Dodrupchen thậm chí không thể dậy nổi, nên Jigme Gyalwe Nyuku phải đỡ ông dậy sau mỗi lần nghỉ. Tuy nhiên, mặc dù thân thể Dodrupchen bị bệnh nặng, tâm ngài vẫn không cảm thấy buồn hay đau khổ. Dodrupchen nói, “Hôm nay tôi có một ít cơ hội để kinh nghiệm khổ hạnh trong thực hành Pháp bằng gánh nặng của thân thể và kinh nghiệm gian khổ của tinh thần – chịu hy sinh một chút trong thực hành của Giáo Pháp linh thánh”. Ngài ca tụng sự đau khổ, “Qua sự dâng hiến như vậy, tôi đang đạt kết quả của thân người là quý với mười tám phẩm tính và sự quang vinh của bốn thăng trầm lớn (sống ở một nơi hòa thuận, có một người sùng đạo như vị thầy, lập nguyện khao khát tốt, và tích lũy công đức). Do vậy, loại kinh nghiệm này là không có bất kỳ nghi ngờ nào, kết quả của sự tích lũy công đức và tịnh hóa các nhiễm ô trong những kiếp trước của tôi.” Sau đó Ngài Jigme Gyalwe Nyuku tiếp tục, “Và Dodrupchen đã có niềm đại hoan hỷ như thế trong tâm, thật tuyệt diệu khi thấy như vậy. Vị Lama này thật sự đang đi theo những lời của Đức Phật, Bằng việc vượt qua lửa và các cánh đồng lưỡi dao, bạn nên tìm kiếm Giáo Pháp cho mục tiêu tối thượng.”

Do vậy, có hai điểm ở đây. Trước tiên, nếu bạn có hoan hỷ, bất kể hoàn cảnh bạn nghiêm trọng ra sao, bạn đều có thể dễ dàng chuyển hóa chúng vào thực hành, Thứ hai, ngay cả nếu bạn không thể chuyển chúng vào thực hành, điều này sẽ làm nó dễ dàng chịu đựng hơn ngay cả những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Thế nên, mặc dù thân thể Ngài Dodrupchen Rinpoche trong tình trạng nguy kịch, Ngài vẫn thật hạnh phúc vì có thể tán thán cơ hội để kinh nghiệm đau khổ cho một mục đích đầy ý nghĩa và cho một tương lai tuyệt diệu.

Với người bình thường chúng ta điều quan trọng là có một quan điểm đơn giản nhưng tích cực và thực tế, hãy suy nghĩ rằng mỗi một chúng sanh đang sống đều có cha mẹ và bạn bè. Nếu có thể thấy sự vật theo cách này, chúng ta sẽ có tình thương và lòng bi cho mọi người. Chúng ta sẽ có một tâm an bình và buông xả. Nếu tâm được an bình và hoan hỷ, chúng ta có thể áp dụng nó để chuyển hóa bất cứ hoàn cảnh nào thành điều tích cực, một nguồn của an bình và hạnh phúc hơn.

Làm thế nào chúng ta đánh giá thực hành của mình và xác định chúng ta đang cải thiện hay chưa được cải thiện, tiến bộ hay thụt lùi? Vấn đề thứ nhất là nhiều người trong chúng ta không thực sự muốn thấy những khuyết điểm của chính mình. Hoặc, thậm chí nếu thấy chúng, chúng ta không thể thừa nhận chúng vì sự yếu đuối của tâm, thiếu tự tin, và sự nhạy cảm của bản ngã. Chúng ta thọ quy y trong việc trách cứ người nào khác hay điều gì đó và có một cảm giác sai lầm vì che dấu sau một lớp vỏ an toàn. Trong văn học Tây Tạng luôn nói rằng cần có một tấm gương để thấy khuôn mặt chính mình là điều quan trọng, không phải chỉ đôi mắt thấy các khuyết điểm trên khuôn mặt người khác. Thế nên, thay vì tìm kiếm một người chịu báng (làm bung xung), chúng ta nên học cánh nhìn vào sự cư xử tinh thần của chính mình và sau đó là hành động của thân thể chúng ta.

Ngay cả nếu chỉ tìm thấy các khuyết điểm trong chính mình, chúng ta nên vui vẻ suy nghĩ, giờ đây, tôi có thể thấy các vấn đề của mình, tôi có thể chuyển chúng vào con đường đúng. Nếu đã có bất cứ tiến bộ tâm linh nào, bất kể chúng bình thường ra sao, chúng ta nên thừa nhận, hoan hỷ với nó và tán thán. Sau đó, năng lượng của sự hoan hỷ chúng ta sẽ mạnh mẽ và nhân lên nhiều lần năng lực của sự tiến bộ tâm linh chúng ta. Hạnh phúc về những cải thiện giúp chúng ta duy trì sự tiến bộ đã làm và năng lượng hóa những nỗ lực trong tương lai của chúng ta.

Khi sống ở Ấn Độ, tôi gặp một học giả và người lãnh đạo quan trọng của Ấn Độ, đã sinh ra trong một gia đình thuộc đẳng cấp thấp. Ông ta được tiếp nhận một nền giáo dục tốt và trở thành một tiến sĩ, sau đó thành thống đốc của một bang ở miền Bắc Ấn Độ. Trong suốt đời, ông đấu tranh chống lại hệ thống phân biệt-đẳng cấp. Nhưng có lần ông nói với tôi, “Mặc dù tôi nói mình chống lại hệ thống đẳng cấp và đã tiêu tốn cả cuộc đời đấu tranh chống lại nó, tôi vẫn chưa trung thực. Thậm chí nếu có ai đó từ một giai cấp thấp hơn yêu cầu được nắm tay con gái tôi, tôi sẽ cảm thấy ngần ngại. Điều đó có nghĩa trong thực tế tôi thù ghét và ganh tị với người giai cấp cao, và tôi không đứng về phía công lý chung của nó cho đến khi nào toàn bộ hệ thống đẳng cấp cao đó sụp đổ.”

Bất cứ khi nào nhớ lại những lời này, tôi kinh nghiệm một cảm giác tán thán về trí tuệ, sự rộng mở, và trung thực của ông. Lẽ dĩ nhiên, tôi không nói về sự phân biệt chính trị là tốt; nhưng khả năng của vị học giả Ấn Độ này đối mặt với khuyết điểm của ông ta một cách trung thực là đáng chú ý. Nếu có thể thấy và chấp nhận sự thất bại của chính chúng ta, việc thay đổi chúng sẽ dễ dàng. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có điều sai quấy tương tự như vậy. Sự khác biệt đơn giản là nhiều người không muốn nghĩ về chúng và không thể chịu nổi phải chấp nhận chúng.

Nhiều người trong chúng ta chống lại người giàu có, suy nghĩ rằng, “Tôi ghét người giàu vì họ không giúp người nghèo.” Tuy vậy, khi có được điều gì đó, chúng ta khó chia sẻ với những người kém may mắn. Chúng ta khó tình nguyện phục vụ xã hội ngay cả khi có thời gian nhàn rỗi. Vậy tại sao chúng ta lại tìm kiếm lỗi với người giàu? Trong thực tế, chúng ta ghen tị và thù ghét họ. Nhiều người trong chúng ta khó rộng rãi với cha mẹ, con cái, họ hàng, hoặc bạn Pháp, trong khi sự quan tâm là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Giống như Mẹ Teresa, nếu chúng ta chỉ cống hiến cuộc sống mình để chia sẻ bất cứ những gì mình có, liệu chúng ta có thể chỉ trích những người không thật bố thí. Tất cả chúng ta đều có quan điểm của chính mình – “Hệ thống này là xấu. Hệ thống đó là tệ” – nhưng cảm giác của chúng ta thường dựa căn bản trên phản ứng cảm xúc của chính mình. Hiếm khi dựa căn bản trên đạo đức thật sự hoặc sự hiểu biết tâm linh. Hiểu được điều này là điều quan trọng.

Để đánh giá sự tiến bộ tâm linh chính mình, chúng ta cần kiểm tra sự thiền định có được đặt nền tảng đúng trong cuộc sống chính chúng ta hay không. Chúng ta cần chắc chắn rằng đã sử dụng thực hành để rèn luyện chính tâm mình, và chúng ta không chỉ dựa vào nó như một truyền thống. Chúng ta cần tự hỏi mình có sử dụng sự thực hành như một người tốt thông minh hay như một lý do để che dấu một số thất bại. Nếu như vậy, chúng ta sẽ chẳng áp dụng sự thực hành cho chính tâm mình. Đây là lúc để thức dậy và bắt đầu đi trên con đường đúng.

Nếu thiền định về lòng bi chẳng hạn, chúng ta cảm thấy dễ dàng phát sinh lòng bi với người nào đó ở xa và không giao kết với mình. Nếu chúng ta không biết ông Smith ở Luân Đôn, có thể bị bệnh hay bị điều gì đó, thì mối liên hệ dễ dàng để phát triển lòng bi với ông ta. Nhưng câu hỏi quan trọng là liệu chúng ta có thể thực hành lòng bi và nhận thức thanh tịnh với những người mình thực sự biết – các thành viên trong gia đình, cha, mẹ, con cháu, chồng, vợ, đồng nghiệp, bạn bè thành viên của Tăng Đoàn, và kẻ thù của chúng ta được hay không – tất cả những người này đã nối kết với chúng ta, nếu không thể có lòng bi với những người thân thì nói về lòng bi cho những chúng sanh đang sống là chuyện lố bịch và xấu hổ to lớn.

Nếu đang thiền định về vô thường và thực sự vượt xa giới hạn thực hành, thì một trong những kết quả cuối cùng là chúng ta sẽ không còn giận dữ người khác. Không một ai là kẻ thù của chúng ta – nó chỉ là sự tạm thời. Bất cứ người nào hôm nay là kẻ thù sẽ là một người bạn vào ngày mai và là điều gì khác ở ngày mốt. Nếu thực sự hiểu biết về vô thường, chúng ta biết chẳng có lý do nào để cảm thấy bám luyến hay thù hận, vì không có điều gì như là bạn bè hay kẻ thù kéo dài mãi mãi. Chúng ta nên trau dồi tính bình đẳng với tất cả chúng sanh đang sống và có lòng bi với tất cả, những người đang tranh đấu lẫn nhau vì sự vô minh của họ. Do vậy, ngay cả việc thực hành về vô thường, nếu làm đúng, sẽ hoàn toàn thay đổi chúng ta. Dĩ nhiên, nếu chúng ta đã làm những giai đoạn cao của thực hành một cách đúng đắn, thì không có vấn đề gì về năng lực hiệu quả của nó. Tuy vậy, thậm chí nếu chúng ta đã thực hành dù ở phương diện đơn giản hay thông thường nhất của giáo lý từ tận đáy lòng, nó sẽ lợi ích to lớn cho chúng ta.

Không cần thiết phải nói chúng ta có thực hành tốt hay không. Chúng ta chính là người biểu thị tốt nhất. Chúng ta phải luôn kiểm soát chính mình để thấy liệu mình đã làm được bất cứ cải thiện nào trong tâm. Nếu chúng ta đã học nhiều thứ và ghi nhớ thì cũng chẳng sao. Nếu tâm không được kỷ luật và an bình, chúng ta nên nghiêm chỉnh nhìn vào chính mình vì lợi ích và tiến bộ của chính chúng ta.

Vấn đề lớn với chúng ta là cảm xúc. Về mặt trí thức chúng ta có thể đi vào triết học, các thiền định cao hơn, và quán sát trí tuệ. Nhưng trong thực tế, chúng ta thường bị choáng ngợp bởi cảm xúc tiêu cực. Chúng ta có thể làm gì với những cảm xúc này? Như đã bàn luận ở trên, bước đầu tiên là nhận ra chúng.

Kế tiếp, chúng ta nên sử dụng kinh nghiệm thiền định để an định chúng. Ví dụ, thỉnh thoảng chúng ta nổi giận. Mà sự nóng giận chỉ là một tạo tác của tâm chúng ta. Nóng giận và thù ghét là sản phẩm của sự không thích, điều đó đơn giản là sự tưởng tượng của chúng ta. Sự bám luyến cũng là tạo tác tinh thần của chúng ta. Chúng ta nghĩ, “Cái đó đẹp. Điều đó thật tuyệt vời. Tôi muốn có nó,” hoặc “Điều đó thật thú vị.” Chúng ta bị bám luyến theo cách này và bắt đầu bám víu và chấp chặt. Kế đó tất cả cảm xúc phiền não theo sau. Nóng giận và thù ghét là một vấn đề dẫn đầu cho một số lớn người Phương Đông và Tây Tạng, như sự ganh tị cho người Mỹ. Sự ganh tị là điều gì đó chúng ta phát triển từ hồi còn bé, được điều kiện hóa bởi trường học, trò chơi, và cạnh tranh. Thậm chí nó trở thành một lời khen: “Ồ, y phục bạn thật đẹp, tôi cảm thấy ganh tị.”

Chúng ta phải không chấp nhận hoặc bào chữa cảm xúc của mình bằng suy nghĩ, “Tôi nóng giận, nhưng đó là quyền của tôi. Tôi phải được nóng giận, điều đó là tốt.” Không, điều đó là sai. Ngọn lửa của cảm xúc sẽ đốt cháy chúng ta thành tro. Một số người chúng ta bào chữa sự nóng giận của mình bằng suy nghĩ, “Mọi người đều nóng giận, vậy tại sao tôi lại không được?” Song, chỉ vì người khác ở trong một hầm lửa, điều đó không có nghĩa là chúng ta cũng nhảy vào. Nếu muốn cải thiện, chúng ta phải cố gắng không có những cảm xúc này. Đó là điều tại sao chúng ta chọn việc thực hành Giáo Pháp.

Chúng ta phải thấy cảm xúc tiêu cực là xấu và ác. Ví dụ, nếu thù ghét hay bám luyến một ai đó chúng ta có thể nghĩ, “Tôi có mọi loại cảm xúc này trong tôi. Tôi giống như một túi dơ bẩn của thùng rác.” Đừng nên nghĩ, “Tôi nóng giận; nhưng vì tôi được giáo dục hay giàu có, nó là quyền của tôi.” Điều này chỉ làm cảm xúc chúng ta phát triển nhiều hơn.

Thấy được cảm xúc của chúng ta là tiêu cực và xấu xa là rất quan trọng. Khi chúng ta thấp kém, nói những điều xấu về người nào đó, hoặc nói lời thô tục, chúng ta nên hình dung rằng mình đang nôn mửa, hoặc nọc rắn độc trúng vào lưỡi mình. Nếu đang làm điều gì tổn hại ai đó, phải tự nghĩ chính mình như một quái vật khủng khiếp bị lửa thiêu đốt, cố ăn thịt mọi người. Ngay cả dù thân thể chúng ta có thể đẹp đẽ, khi bị cảm xúc phiền não ám ảnh, chúng ta sẽ trở thành quái vật. Nếu thấy chính chúng ta thành quái vật, điều gì sẽ xảy ra? Chúng ta sẽ chẳng muốn sống trong loại tình huống này một chút nào nữa.

Sau khi nhận biết được cảm xúc phiền não của chúng ta và thấy chúng là tiêu cực, chúng ta nên sử dụng việc rèn luyện Giáo Pháp của mình để tẩy tịnh và chuyển hóa chúng vào thực hành. Sự giải độc cho nóng giận là phát triển lòng bi với chúng sanh bằng cách nghĩ họ là các bà mẹ của chúng ta. Sự giải độc cho tính ganh tị là hoan hỷ trên hạnh phúc của tất cả bà mẹ chúng sanh. Sự giải độc cho bám luyến là hiểu được vô thường và bản chất đau khổ của sinh tử. Sự giải độc cho vô minh là nhận ra thật tánh và lý duyên sinh của hiện tượng hiện hữu.

Trong một cách, thật khó kỷ luật tâm chúng ta vì chúng dễ thay đổi và thường xuyên dao động. Nhưng điều này cũng làm chúng thật dễ rèn luyện. Để thay đổi hình dạng của một cái bàn chắc chắn, chúng ta cần làm việc rất chật vật. Nhưng thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta lại dễ hơn nhiều – nó có thể được thay đổi hầu như lập tức. Nếu chúng ta quan tâm không để tâm mình rơi vào sự kiểm soát của nóng giận, bám luyến, và đố kỵ, v.v…. thì chúng sẽ ở trong trạng thái rộng mở, buông xả, và thanh thản một cách tự nhiên.

Có lần, trên truyền hình tôi thấy việc làm về một người nào đó phát triển kỹ thuật lừa gạt để điều trị bệnh nhân tâm thần. Trong lúc không ở trong phạm trù của sự rối loạn tâm thần, nhiều người chúng ta ít nhất đã có tâm thức quá rắc rối, phức tạp. Điều quan trọng là loại bỏ những quan điểm và cảm xúc tiêu cực này, để đem tâm chúng ta trở lại trạng thái tự nhiên (tôi không đề cập đến trạng thái tự nhiên cao, chỉ là một trạng thái tự nhiên bình thường), giống như trở lại trạng thái tâm thức của trẻ em.

Bạn có thể nghĩ rằng tâm trẻ em chưa được giáo dục, nó không khao khát. Một cách trí năng là đúng, nhưng mọi sự đều có hai mặt. Tâm của trẻ em ít cảm xúc hơn. Có thể trẻ em sẽ khóc khi đói hay lạnh, nhưng chúng không phân tích, “Đây là kẻ thù của tôi, vì thế này, thế kia” hoặc “Đây là bạn của tôi vì điều này, điều nọ.” Chúng ít giả tạo. Thậm chí nếu khi chúng ta già, chơi trò chơi của trẻ em, như chơi tung hứng, có thể đem chúng ta trở lại trạng thái tâm ngây thơ, rộng mở của thời thơ ấu.

Do vậy, nếu chúng ta có thể có một tâm đơn giản, rộng mở, và buông xả, giống như trẻ em, và nếu có thể áp dụng trí tuệ và kinh nghiệm của một thiền giả khéo léo, chúng ta ở trên con đường đúng cho cả hai tỉnh giác và an bình. Ngoài ra, nếu tâm chúng ta buông xả trong rộng mở, sự ràng buộc của cảm xúc và khái niệm sẽ tự nhiên nới lỏng, và kinh nghiệm của an bình và trí tuệ nhận biết sẽ khởi lên một cách tự nhiên qua một ít thiền định. Do đó, điểm quan trọng đầu tiên là mở rộng cánh cửa của tâm, để chào đón ánh sáng bình minh của tinh thần trong lòng chúng ta. Nếu đã đi được bất cứ bước nào trong hướng này, thì chúng ta đang tạo ra sự tiến bộ. Hãy hoan hỷ về điều này.

Đức Tulku Thondup

Harold Talbort biên soạn – Bản Dịch Việt Ngữ: Tuệ Pháp