cung duong khoi huong Duc Garchen Rinpoche

Cúng dường khói hương

Điểm chính yếu trong mọi thực hành pháp, kể cả cúng dường khói hương, là chúng ta cần thực hành cùng với Bồ Đề Tâm. Khi mọi việc chúng ta làm được kết hợp với Bồ Đề Tâm thì tự nhiên sẽ trở thành thực hành Lục Độ Ba La Mật: cúng dường (hoặc bố thí), trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Thực hành cúng dường khói hương chính là Ba La Mật đầu tiên. Có nhiều loại cúng dường hoặc bố thí như vật thí, pháp thí, vô úy thí. Ở đây chúng ta đang nói đến bố thí pháp. Có các loại như cúng sang (cúng dường khói hương), cúng sur (cúng hương linh), cúng bánh torma, và cúng dường thực phẩm .v.v. Chúng ta chủ yếu đang đề cập đến cúng sang, cúng sur, cúng bánh torma. Đây là phương pháp cúng dường rất lợi lạc trong trường hợp không có phẩm vật cúng dường. Chúng ta mang lại lợi ích to lớn thông qua việc quán tưởng bằng tâm. Thực tế lợi ích của việc cúng dường khói hương còn lớn hơn [cúng dường phẩm vật].

Khởi đầu pháp cúng dường khói hương, chúng ta tụng sáu câu chú và thực hiện sáu thủ ấn. Ngoài ra chúng ta còn quán tưởng khi tụng chú. Tụng chú và bắt ấn cũng để gia trì phẩm vật. Điều quan trọng là cần phải hiểu được ý nghĩa của thực hành cúng dường khói hương. Nếu hiểu được ý nghĩa của pháp tu này thì thông qua việc quán tưởng, tụng chú và bắt ấn, chúng ta có thể làm cho phẩm vật nhỏ bé trở nên rộng lớn tràn khắp, tức là có thể làm phẩm vật được tăng nhiều lên gấp bội phần.

Pháp cúng dường khói hương được viên thành do bởi phẩm chất của ba năng lực. Năng lực thứ nhất là tâm nguyện tốt lành của chúng ta. Năng lực thứ hai là tình yêu thương và lòng bi mẫn của chư Phật. Năng lực của chư Phật được chúng ta thỉnh gọi thông qua việc tụng sáu câu chú cùng với quán tưởng và thực hiện sáu thủ ấn. Năng lực thứ ba là năng lực của pháp giới. Sáu thủ ấn có thể thực hiện trong bất kỳ loại cúng dường nào, các thủ ấn đó thể hiện hạnh quảng đại. Năng lực thứ ba chỉ ra rằng vạn pháp không có sự tồn tại cố hữu mà chỉ tạm thời xuất hiện như cách chúng ta thấy. Vì vậy pháp cúng dường chân thực chính là do tâm tạo. Bất cứ thứ gì chúng ta nghĩ đến thì thứ đó cũng có thể hóa hiện trong tâm, và chúng ta có thể cúng dường. Chính vì thế phẩm vật có thể được làm cho tăng nhiều lên gấp bội phần, có thể chuyển hóa phẩm vật thông qua tâm. Thông qua đó chúng ta mang lại công đức to lớn.

Có nhiều cách tu tập hạnh quảng đại. Ví dụ ở mức độ bên ngoài chúng ta bảo vệ những người gặp khó khăn, như giúp người bệnh, khách đến từ xa, người nghèo, người khốn khó khổ đau v.v. Chúng ta nên làm mọi thứ trong khả năng của mình để giúp đỡ mọi người. Chẳng hạn có người bạn đạo đi từ xa đến để học Pháp, chúng ta đến sân bay đón họ, sắp xếp cho họ ở trong phòng của mình v.v. – đó là một hình thức cúng dường hay bố thí. Hình thức thứ hai là bố thí sự vô úy (vô úy thí), tức là bảo vệ người khác khỏi những nỗi sợ hãi như sợ bị cướp, sợ động vật hoang dã v.v. Ví dụ khi có tên cướp định tấn công một người thì chúng ta đến ngăn chặn làm cho tên cướp không thực hiện được ý đồ của hắn. Chúng ta làm mọi việc để người khác không bị hãm hại. Thứ ba là bố thí vật chất. Chúng ta nên cho đi nhiều nhất những gì mà chúng ta có thể – mọi thứ trong khả năng của mình – ví dụ tiền bạc hay vật dụng sở hữu. Ở đây điều chính yếu không phải là có bao nhiêu để bố thí mà là ý nguyện trong tâm của chúng ta. Ví dụ một người nghèo có thể bố thí 1 đô-la là đủ trong khi người giàu hơn có thể bố thí 100 đô-la. Có khi việc bố thí 1 đô-la của người nghèo còn mang lại lợi ích nhiều hơn 100 đô-la của người giàu, vì điều đó phụ thuộc và động lực của tâm. Thứ tư là bố thí Pháp: cúng “sang”, cúng “sur”, hay các loại bánh cúng torma.

Liên quan đến việc bố thí thức ăn, khi có thức ăn thừa vứt đi thì chúng ta nên bố thí và hồi hướng. Chúng ta bố thí cho những chúng sinh không may mắn, họ không có khả năng để có được bất kỳ thức ăn nào khác ngoại trừ những đồ thừa bỏ đi. Chỉ khi chúng ta hồi hướng thì họ mới nhận được. Sở dĩ những chúng sinh đó bất hạnh là vì trong đời quá khứ đã đánh mất Bồ Đề Tâm và vì vậy sự chấp ngã của họ rất mạnh mẽ. Trong giai đoạn trung ấm, thần thức bám luyến vào thân thể của họ lang thang nhưng họ lại không có đủ nghiệp lành để tìm những thức ăn thông thường mà chỉ có thể tìm đến thức ăn bỏ đi, thậm chí không có khả năng để nhận được ngay cả đồ thừa do sự bám chấp nhị nguyên ta – người trong tâm. Về phía bản thân mình, chúng ta cũng có sự bám chấp nhị nguyên, vì thế cần hồi hướng cho họ. Nếu chúng ta chỉ vứt đồ ăn thừa đi thì các chúng sinh kém may mắn đó sẽ không nhận được. Nhưng nếu chúng ta hồi hướng, ví dụ tụng một vài câu chú Mani và chủ tâm hồi hướng cho họ, thì họ có thể nhận được đồ ăn thừa đó. Chỉ khi đó các chúng sinh ấy mới có được duyên may và khả năng để thọ dụng. Vì vậy những đồ ăn thừa thì chúng ta bố thí thông qua cách trên, còn những thứ bản thân mình ăn thì chúng ta cúng dường lên Tam Bảo. Do đó có bốn cách thực hành hạnh quảng đại.

Chúng ta bắt đầu với câu minh chú đầu tiên – minh chú của Đức Thích Ca Mâu Ni “Om svabhāva shuddha sarva dharma svabhāva shuddhō ham”, có nghĩa là “Các phẩm vật tự tánh vốn rỗng Không”. Ví dụ về trái cây này, chúng ta nghĩ: tôi là người ăn trái cây và trái cây là thứ để ăn. Nhưng thực chất thì cả người ăn trái cây và trái cây (vật để ăn) đều không có sự tồn tại cỗ hữu mà chân tánh là rỗng Không. Tất cả đều do tâm tạo. Vì thế chúng không có sự tồn tại chân thật, chúng có bản chất rỗng Không. Ngài Long Thọ trong tác phẩm Trung Quán Luận đã nói rằng: chính vì tánh Không mà mọi thứ đều có thể hóa hiện. Và điều đó liên hệ đến điều chúng ta đang nói ở đây. Chẳng có gì tự thân tồn tại, chân tánh của vạn pháp là rỗng Không. Chính vì thế khi tâm nghĩ đến thứ gì thì có thể tạo nên thứ đó. Điều này rất ý nghĩa. (Sau đó Rinpoche dạy cách bắt ấn khi tụng câu chú này, và nói rằng bắt ấn như thế là thể hiện cho tánh Không).

Câu minh chú đầu tiên tịnh hóa tất cả vào trong tánh Không. Chính vì thế mà khi bắt ấn, chúng ta để khoảng trống giữa hai lòng bàn tay. [Chân] tâm thì rỗng rang trong đó khái niệm “tôi” không tồn tại, tâm ấy giống như hư không. Tâm giống hư không vì cùng một bản chất rỗng rang. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ được điều này, vì thế đây là câu chú của Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã hiểu được vạn pháp như đúng bản chất của chúng. Tất cả đều mang tánh Không. Cả người hồi hướng và đối tượng hồi hướng đều mang bản tánh rỗng Không.

Câu minh chú thứ hai là của Đức Tỳ Lô Giá Na “Namah sarva tathāgate bhyo vishva mukhe bhyah / sarva tha kham udgate spharana imam gagana kham svāhā”. Từ trong hư không, sáu cõi luân hồi – là sản phẩm của tâm – xuất hiện một cách tự nhiên. Người, ngạ quỷ, các loại sinh linh khác nhau v.v. tất cả đều hiện hữu và tất cả đều là sản phẩm của tâm. Ví dụ, tâm bỏn sẻn hóa hiện ra thành ngạ quỷ. Tại sao lại như vậy? Giả sử ở đây có một chút thức ăn và có loại côn trùng nhỏ xíu bay lượn xung quanh. Các con côn trùng đó đói và chúng muốn ăn thức ăn nhưng chúng lại không có đủ thiện nghiệp để có thể thọ hưởng thức ăn đó. Thức ăn có ở đó và chúng bay xung quanh mà không thể ăn được vì không có thiện nghiệp. Tuy nhiên chúng ta là con người và có thể thọ dụng thức ăn đó. Chúng ta mang nghiệp con người nên có một thứ vật chất dưới dạng thức ăn và chúng ta có thể ăn. Những chúng sinh có thể thọ dụng thức ăn như là chúng ta và những chúng sinh không thể thọ dụng thức ăn đều cùng nhau sống chung trong một không gian. Chân tâm của tất cả là đồng đẳng. Khi hồi hướng cho những chúng sinh không thọ nhận được những thực phẩm kia thì chúng ta hồi hướng điều gì và họ thực sự cần gì? Điều họ cần là tình yêu thương để giảm thiểu chấp ngã của chính họ. Tình yêu thương của chúng ta có thể làm tan chảy tảng băng chấp ngã của họ. Chỉ khi chấp ngã không còn nữa thì chúng sinh mới thành Phật. Nền tảng tâm của tất cả là như nhau. Khi chấp ngã giảm thiểu thì những chúng sinh kia mới có thể dần dần cảm nhận được các trạng thái hỷ lạc. Đầu tiên họ có thể thọ hưởng được những trạng thái của người và Trời, ví dụ có thể thọ hưởng thức ăn, rồi sau đó dần dần trở thành Bổn Tôn trí tuệ và có được hỷ lạc của các cõi Tịnh Độ. Vì vậy sự hồi hướng thực sự chính là tình yêu thương.

Tất cả những gì tồn tại một cách tự nhiên trên vũ trụ này như hoa lá, cây cối, lương thực v.v. đều là sản phẩm của tình yêu thương đến từ chư Phật chứ chẳng phải do ai tạo ra cả. Những gì thiên nhiên ban tặng [thực chất] đến từ tình yêu thương, lòng bi mẫn và tánh Không của chư Phật. Chư Phật đã giác ngộ được tánh Không và đại bi, còn chúng sinh thì chưa giác ngộ được điều đó. Vì vậy xuất phát từ lòng đại bi của chư Phật mà tạo hóa đã xuất hiện theo nhiều cách khác nhau một cách tự nhiên. Tất cả đều là các hóa thân đến từ tâm nguyện của chư Phật. Tuy nhiên có những thứ chúng ta nhìn thấy và có những thứ chúng ta không nhìn thấy được. Trong hư không, những tinh chất đem lại sự sống của năm nguyên tố lan tỏa khắp nơi – một số trong chúng, chúng ta có thể nhìn thấy và một số thì không thể nhìn thấy. Những tinh chất của sự sống có mặt ở mọi nơi, khắp hư không được thẩm thấu bởi những tinh chất đem lại sự sống của năm nguyên tố. Vì thế mà pháp tu cúng dường khói hương mang lại nhiều lợi lạc. Tất cả phẩm vật được tịnh hóa vào trong tánh Không. Và bởi vì tinh chất đem lại sự sống của năm nguyên tố lan tỏa cùng khắp hư không nên khói hương cúng dường sẽ hòa nhập vào trong những tinh chất ấy.

Một số người nghĩ rằng cúng dường khói hương (“sang” ) hay cúng “sur” thường là một pháp hành trì nhỏ bé và vì thế làm sao có thể mang lại lợi lạc to lớn được. Tuy nhiên pháp hành trì này không nhỏ nếu chúng ta phát khởi Bồ Đề Tâm. Ở mức độ tương đối thì có vẻ trông như một nghi lễ cúng dường nhỏ bé nhưng thực ra không phải như vậy. Có rất nhiều người cử hành lễ cúng dường khói hương và khi mọi người cùng làm thì họ đang cúng dường khói hương với nhau, và vì vậy khói hương cúng dường của người này hòa nhập vào của người kia. Tinh chất cho sự sống của năm nguyên tố tràn khắp hư không, và khi tất cả khói hương cúng dường hòa nhập vào những tinh chất đó thì tất cả là một.

Tại sao tất cả trở thành một. Bởi vì tất cả cùng thực hành trên một nền tảng – đó là Bồ Đề Tâm. Và như thế thì tâm của chúng ta đang hòa nhập vào nhau khi thực hành pháp cúng dường khói hương. Khi chúng ta thực hành Pháp này cùng với Bồ Đề Tâm thì điều đó sẽ trở thành việc cầu nguyện, phát khởi lòng bi mẫn và hồi hướng cho chúng sinh, đồng thời cũng là cúng dường lòng sùng mộ đến chư Phật tại các cõi Tịnh Độ. Khi tất cả chúng ta thực hành với cùng một động lực tâm như thế thì tất cả sẽ hòa nhập với hư không, với bầu trời, và trong hư không thì tất cả khói hương cúng dường hòa nhập làm một. Điểm này rất quan trọng. Thủ ấn của câu minh chú thứ hai này thể hiện sự hòa nhập vào hư không, sự hợp nhất giữa tính Không và lòng bi mẫn. Vì vậy điểm rất quan trọng cần hiểu được là làm thế nào để tâm nguyện của chúng ta có thể hòa nhập vào hư không.

Câu minh chú thứ ba là của Đức Cam Lộ Du Minh Vương “Om vajra amrita kundali hana hana hūm phat”. Thủ ấn với hai ngón tay cái đan vào nhau thể hiện tình yêu thương và lòng bi mẫn. Đó là việc trao tặng tình yêu thương và lòng bi mẫn đến hữu tình là đối tượng của nghi lễ cúng dường chúng ta đang cử hành. Nếu chúng ta không trao tặng cho họ tình yêu thương thì họ không thể nhận được phẩm vật cúng dường. Đan hai ngón tay cái vào nhau tượng trưng cho tình yêu thương và lòng bi mẫn, hiểu được rằng rất cả mọi hữu tình chúng sinh đều từng là cha mẹ của ta. Khi họ nhận được tình yêu thương thì điều đó làm giảm thiểu sự chấp ngã của họ và do vậy họ có thể thọ hưởng đồ cúng dường.

Câu minh chú có nghĩa là “tất cả các phẩm vật trở thành một biển cam lộ vĩ đại”. Tiếng Tạng từ đü-tsi có nghĩa như sau. Chữ “đü” có nghĩa là ma vương và ma vương ở đây chính là chấp ngã. Chính do tâm chấp ngã mà chúng sinh đắm chìm trong biển khổ luân hồi, đặc biệt là ba cõi thấp. Khi chúng sinh phát khởi được tình yêu thương và lòng bi mẫn thì tâm chấp ngã sẽ bị phá hủy. Chữ “tsi” có nghĩa là cam lộ. Khi chúng ta hòa nhập ma vương chấp ngã vào trong Bồ Đề Tâm thì sẽ không còn chấp ngã. Ma vương năm độc sẽ trở thành cam lộ của năm trí tuệ. Khi năm ô nhiễm chuyển hóa thành năm trí tuệ thì ma vương trở thành nước cam lộ, trở thành lương dược.

Phẩm hạnh của tình yêu thương là gì. Ví dụ có một người yêu con rất nhiều và mang đến cho con một viên kẹo nhỏ xíu. Con ăn và cảm thấy hương vị viên kẹo đó tuyệt vời làm sao. Sở dĩ như vậy bởi vì con nhận viên kẹo từ một người rất yêu thương con. Đó chính là sức mạnh của tình yêu thương, nó chính là phương thuốc đối trị với chấp ngã. Ngược lại giả sử có ai cho con một thứ rất giá trị nhưng lại không đi cùng với tình yêu thương. Khi đó con chẳng có cảm nhận đặc biệt nào cả. Nhưng chỉ một chút thực phẩm mà đi cùng với tình yêu thương thì sẽ mang lại cảm nhận mạnh mẽ. Đó là phẩm hạnh của tình yêu thương, nó chuyển hóa mọi thứ thành cam lộ của lương dược. Khi tâm con có tình yêu thương thì sẽ mong muốn được trao tặng [cho chúng sinh] và vì vậy mọi thứ sẽ được chuyển hóa thành một biển cam lộ vĩ đại.

Câu minh chú thứ tư là minh chú của Đức Bảo Sanh “Namah sarva tathāgata avalokite oṁ sambhara sambhara hūm” – “Tất cả các phẩm vật hòa hợp với những ước nguyện của các vị khách”. Câu chú này muốn nói tới năng lực của chư như Lai hay năng lực của tất cả chư Phật và chư Bồ Tát. Đó là năng lực đến từ tình yêu thương và lòng đại bi của chư Phật ba thời. Tất cả các yếu tố bên ngoài chính là các hóa thân Phật đến từ lòng đại từ đại bi của các Ngài. “Tất cả các phẩm vật hòa hợp với những ước nguyện của các vị khách” có nghĩa là trong tâm chúng ta quán tưởng khói hương cúng dường trở thành bất thứ điều gì chúng sinh cần. Ví dụ ai ốm có thuốc, ai chết có nước cam lộ gia trì, ai cần quần áo sẽ được quần áo, ai cần thức ăn sẽ được thức ăn, ai cần bạn đồng hành sẽ có bạn đồng hành. Chúng ta tụng lời nguyện ở đây là cầu cho chúng sinh nhận được bất cứ thứ gì họ cần. Thông qua năng lực của tâm nguyện như thế mà các phẩm vật cúng dường có thể thực sự trở thành bất cứ thứ gì chúng sinh cần đến.

Câu minh chú thứ năm của Đức Bất Không Thành tựu “Om jñāna avalokite namaḥ samanta spharana rasmi sambhava samaya mahā mani duru duru hridaya jvalani hūm”, có nghĩa là “Tất cả các phẩm vật có được không thêm không bớt hay bị xung đột với các vị khách.” Thủ ấn đi kèm với câu chú này là chúng ta giữ cao tay phải như thế này và tay trái chuyển động như vậy, có nghĩa là mọi phẩm vật được thọ hưởng không suy giảm hay tăng thêm, không xung đột với nhu cầu của các vị khách. Tất cả các vị khách đã đến, đã nhận được những gì họ cần. Và ngay cả khi họ về đến nơi cư trú của mình thì cũng không có gì bị suy giảm, mà nơi họ cư trú tràn đầy những gì họ cần và họ hoan hỷ thọ hưởng.

Và tiếp theo, câu chú thứ sáu là câu chú của Đức Kim Cang Thủ “Namah samanta buddhanāṁ graheshvari prabhañjati mahā samaya svāhā”, có nghĩa là “Mỗi một vị khách đều được năng lực của con thu phục”. Tức là tất cả các vị khách đã trở thành những người bạn và họ hạnh phúc. Ví dụ khi chúng ta yêu thương một người nào đó thì người đó cũng yêu thương và thể hiện sự tôn trọng chúng ta. Cách bắt ấn trong câu minh chú này có thể khác nhau giữa các dòng truyền thừa, tuy nhiên câu minh chú thì như nhau. Vì vậy nếu con đang tu tập theo dòng truyền thừa nào thì con bắt ấn theo dòng truyền thừa đó.

Khi thực hiện cúng dường khói hương hay tiến hành bất kỳ cầu nguyện nào, chúng ta sắp đặt một số phẩm vật dâng cúng nhất định. Chúng ta có thể nghĩ là những phẩm vật này nhỏ bé nhưng thực chất thì chúng không hề nhỏ bé. Tất cả mọi phẩm vật đều xuất hiện từ một nền tảng – đó là năm nguyên tố, và thông qua cúng dường khói hương thì chúng tan hòa trở lại vào trong tinh chất đem lại sự sống của năm nguyên tố. Ví dụ khi chúng ta nấu thức ăn, tinh chất rời thức ăn dưới dạng hơi. Chính hơi (bốc lên từ thức ăn trong lúc nấu) chứa tinh chất của thức ăn và chúng tan hòa vào hư không, tan hòa vào tinh chất của sự sống tràn khắp hư không. Thực ra đồ nấu mà chúng ta ăn chỉ là đồ thô tế còn lại không còn tinh chất nữa. Vì vậy trong hư không, những tinh chất của sự sống xuất hiện một cách tự nhiên. Khi chúng ta cúng dường Tam Bảo với lòng sùng kính thì điều đó sẽ mang lại công đức to lớn. Khi chúng ta hồi hướng cho chúng sinh với tình yêu thương và lòng bi mẫn thì họ có thể nhận được đồ chúng ta cúng dường. Nhờ đó chúng ta có thể trả nợ được các chủ nợ ân oán thông qua việc trao cho họ những thứ họ cần. Vì vậy chúng ta cần hiểu được bản chất của vạn pháp. Tinh chất của sự sống tràn khắp hư không, và khi chúng ta quán tưởng với tâm nguyện thanh tịnh – cúng dường chư Phật và bố thí cho chúng sinh – thì sẽ mang lại lợi lạc thật sự.

Thực ra ở các cõi Tịnh Độ mọi thứ đều có sẵn một cách tự nhiên và không cần dụng công. Tuy nhiên thông qua cúng dường chư Phật ở các cõi Tịnh Độ, chúng ta tích lũy được công đức. Khi cúng dường và bố thí cho chúng sinh trong sáu cõi luân hồi thì điều tối quan trọng là tâm nguyện của mình – chúng ta muốn trao tặng cho họ vì yêu thương họ. Nếu không có tình yêu thương thì họ không thể nhận được phẩm vật. Vì vậy động lực thúc đẩy ở đây chính là tình yêu thương đối với họ. Nếu chúng ta cúng dường như thế thì họ có thể nhận được. Xuất phát từ tâm nguyện, rồi chúng ta trao cho họ với tình yêu thương, khi đó họ có thể thọ nhận. Tình yêu thương của chúng ta ban tặng giúp cho chúng sinh giảm thiểu chấp ngã. Chính vì chấp ngã mà chúng sinh phải chịu biết bao thống khổ, họ đói khát mà không thể nhận được phẩm vật. Thông qua tình yêu thương chúng ta gửi đến họ mà dần dần sự chấp ngã của họ giảm thiểu và họ sẽ giảm thiểu sự thống khổ cơ hàn, đói kém v.v.

Và như đã nói ở trên mọi sự viên thành là do ba năng lực. Thứ nhất là tâm nguyện tốt lành của chúng ta. Tâm nguyện của con cần phải hoàn toàn chân thành và thanh tịnh không nhuốm bất kỳ sự vị kỷ nào vì lợi ích của bản thân. Nếu con nhất tâm mong muốn làm lợi ích cho chúng sinh mà không hề có chút chấp ngã nào cả thì pháp cúng dường khói hương sẽ mang lại lợi ích lớn lao cho cả chúng sinh và chính bản thân con. Thứ hai là năng lực đến từ lòng đại bi của chư Phật. Chư Phật đã thấu biết rằng chúng sinh chỉ tạm thời hiện hữu do bởi nghiệp và tập khí của họ, giống như tảng băng trong nước. Chính là lòng bi mẫn sẽ làm tan chảy sự chấp ngã của chúng sinh. Vì vậy chư Phật có lòng đại bi dành cho chúng sinh. Dù rằng chư Phật chỉ tụng một câu chú Mani thì cũng luôn cầu nguyện rằng việc đó sẽ mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Đó là năng lực đến từ lòng đại bi của chư Phật. Thứ ba là năng lực của Pháp giới, như đã đề cập trong câu chú thứ nhất. Thông qua năng lực này mà những vị khách nhận được đồ cúng dường. Thực chất thì không có gì tồn tại tự thân. Chúng sinh tạm thời phải chịu đau khổ là do bởi nghiệp và tập khí của họ. Các cõi Tịnh Độ hóa hiện một cách tự nhiên do bởi Bồ Đề Tâm, còn sáu cõi luân hồi tồn tại do bởi chấp ngã và cảm xúc tiêu cực. Tuy nhiên cả chư Phật và chúng sinh đều không thực sự tồn tại; thanh tịnh và bất tịnh cũng không có sự tồn tại tự thân. Vạn pháp siêu vượt tồn tại và không tồn tại mà chỉ xuất hiện giống như hư huyễn. Chư Phật thấu biết điều ấy; tức là thanh tịnh và bất tịnh, chư Phật và chúng sinh cũng chỉ là hư huyễn mà thôi. Nhận ra điều này chư Phật tự do giải thoát khỏi mọi bám chấp vào bất kỳ một thực tại nào hay trước bất cứ điều gì diễn ra.

Nếu hiểu được ba năng lực này thì chúng ta có thể thấy pháp cúng dường khói hương mang lại lợi ích như thế nào. Ví dụ chúng ta có thể cử hành lễ cúng dường khói hương cho người đã mất. Làm sao họ nhận được lợi ích, đó là khi chúng ta hồi hướng cho họ với tình yêu thương. Chính tình yêu thương mang lại lợi ích cho họ. Vì thế chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu thương của chính bản thân mình. Ngoài ra khi chúng ta tụng bất kỳ minh chú nào với sự hiểu biết nói trên thì khi đó chúng sinh có thể nhận được đồ cúng dường thông qua tình yêu thương của chúng ta. Không chỉ có pháp cúng dường khói hương mà bất cứ pháp cúng dường nào chúng ta thực hiện thì cũng có thể áp dụng sáu câu minh chú nói trên. Vì thế việc hiểu được ý nghĩa của những minh chú này là điều quan trọng.

Chúng ta bắt đầu bước vào phần chính của nghi lễ cúng dường khói hương, bắt đầu bằng “Ê-ma-hô! Xin hãy quán xét điều này! Tuyệt vời nhất của bốn lục địa là Cõi Diêm Phù Đề – Vua của các cõi – nằm ở phương Nam. Phía đông bắc của cõi Diêm Phù Đề, trên núi A-va-ka-na có mọc ba loại cây chứa nước cam lộ của sự bất tử.” Phần này giải thích thế giới này tồn tại thông qua cách nào. Có rất nhiều cây thảo dược, nhưng ba loại cây được nói ở đây mang cam lộ của sự bất tử: “dưới chân núi là những cây ngải ra hoa vàng, dọc sườn núi là những cây bách với chồi xanh lam, trên đỉnh núi là những cây đỗ quyên ra hoa màu ốc xà cừ”. Đó là ba loại cây siêu việt chứa cam lộ của sự bất tử. Có nhiều ý kiến khác nhau về câu hỏi “có bao nhiêu loại cây như thế” v.v. nhưng có thể lấy một ví dụ về cây bách. Cây bách chứa phẩm chất của sự bất tử hay trường thọ. Những loại cây này cũng chính là hóa thân Phật. Chư Phật hóa hiện với tâm nguyện mang lại lợi ích cho chúng sinh và làm cho họ hạnh phúc. Bất cứ thứ gì tồn tại một cách tự nhiên mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sinh thì có thể hiểu đó chính là các hóa thân Phật. Ví dụ về một cái cây có thể là nơi trú ngụ của hàng triệu chúng sinh, có thể mang lại thực phẩm, là nơi cho bóng mát và khi mùa đông đến, nó có thể là nơi tạm trú. Cây cũng có thể ra hoa và cho mật. Như vậy cây mang lại hỷ lạc và hạnh phúc cho tâm của chúng sinh, vì thế đó chính là hóa thân Phật.

Cây bách là loại cây quý hiếm vì nó giúp kéo dài thọ mạng. Cây bách rất đặc biệt, ví dụ nó không bị tàn phá bởi cái lạnh băng giá của mùa đông, cũng không bị phá hủy bởi sức nóng mạnh mẽ của mùa hè. Cây bách luôn luôn phát triển, vì thế nó là loại cây đặc biệt. Có một câu chuyện về một người giống như đức Milarepa. Đó là vào thời kỳ cách mạng văn hóa xảy ra ở Tây Tạng. Vào năm 1949 người đàn ông này đã trốn lên núi để khỏi bị bắt và đã sống đơn độc trên núi suốt hai mươi năm. Trong suốt thời gian đó ông chỉ dựa vào cây bách để nuôi sống bản thân. Vì vậy khi ông bị phát hiện thì người ta đã không bỏ tù hoặc bắt giữ ông, họ cảm thấy rất kinh ngạc về cách ông đã sống sót trong suốt hai mươi năm chẳng khác nào đức Milarepa và vì vậy đã thả ông tự do. Vì vậy cây bách có một năng lực rất đặc biệt và viên thành lợi ích cho chúng sinh. Ngoài ra cây bách cũng tồn tại một cách tự nhiên do tâm nguyện của chư Phật.

Các nguyên tố tồn tại cũng do tâm nguyện của chư Phật. Các tôn giáo khác nói rằng thiên nhiên là do Chúa ban tặng, là sản phẩm của Chúa. Họ nói như vậy cũng tốt. Chúng ta nói mọi thứ là hiện thân của chư Phật. Vậy chỉ có cách dùng từ ngữ là khác nhau. Mọi thứ tồn tại một cách tự nhiên nhưng đó chính là sự ban tặng xuất phát từ tình yêu thương và lòng bi mẫn của chư Phật. Các cõi tịnh độ xuất hiện bởi Bồ Đề Tâm của chư Phật, còn thế giới của chúng ta có cả hai thứ thanh tịnh và bất tịnh. Mọi thứ mang lại lợi ích cho chúng sinh đều hóa hiện từ Bồ Đề Tâm của chư Phật. Tam độc hay ba ô nhiễm tạo ra các cõi luân hồi. Tam độc làm cho mọi thứ trở thành độc tố, vì thế chúng ta nói có thanh tịnh và bất tịnh. Nhưng cần hiểu những phẩm vật cúng dường đang nói đến trong nghi quỹ này là sự hóa hiện từ Bồ Đề Tâm vĩ đại của chư Phật. Điều này cũng liên hệ đến năng lực thứ hai mà chúng ta đã nói đến ở trên, năng lực đến từ lòng đại bi của chư Phật.

Mấy dòng tiếp theo tự nó đã nói khá rõ nên Thầy sẽ đọc theo trong nghi quỹ:

“Với những phẩm tính tối hảo, xanh mướt và toả hương suốt cả bốn mùa, ba loại cây tuyệt vời này chứa đựng linh đan thành tựu sự bất tử. Đó chính là phẩm tánh siêu phàm của những loại cây kỳ diệu này.

Để xua tan những vọng niệm mê lầm của chúng sinh, thông qua sự gia trì của các Đấng Chiến Thắng trong ba thời và thông qua các hiện tượng tương thuộc giữa Trời, người và quỷ thần, phù hợp với duyên nghiệp, phước đức cùng các mong nguyện của họ; mùi hương thơm ngát cùng những đám mây khói hương cuồn cuộn lan tỏa vào trong bầu trời từ những loại cây mang phẩm tính bất tử kia. Vì vậy, sự mê muội và những che chướng dầy đặc của Trời, người và quỷ thần được xua tan.

Khi những luồng lửa phóng tỏa, giống như những tia sáng bừng tỏ, thì sự tối tăm dầy dặc do vô minh và mê lầm được xua tan. Sự ô uế, nhơ bẩn và tồi bại bị thiêu hủy bởi những đốm than nóng bỏng đang bốc cháy.

Còn về ba loại cây có phẩm tính tối hảo kia, thông qua năng lực của sự gia trì từ pháp giới tuyệt đối thuần tịnh, thông qua chân lý của Tam Bảo – trụ xứ Quy Y – và thông qua sự thành tựu của các thánh nhân và các bậc trì giữ tánh giác, các loại cây này cung cấp phương tiện cho pháp cúng dường khói hương.”

Như vậy nghi quỹ đã giải thích phẩm tính đặc biệt của ba loại cây bất tử. Một dòng gần cuối ở phần nghi quỹ ở trên có nhắc đến các bậc thánh nhân và các bậc trì giữ tánh giác (trì minh vương). Truyền thống Kinh thừa nói đến các bậc thánh nhân (Rishi); còn truyền thống Mật nói đến các bậc trì minh vương (Vidyadhara). Các bậc thánh nhân là những người đã thực hành thiện hạnh với thân – khẩu – ý xuyên qua nhiều kiếp, và một trong những phẩm hạnh đặc biệt của các Ngài là trong suốt những đời quá khứ đó, họ chưa từng bao giờ nói dối mà luôn luôn chính trực. Họ luôn an trú trong thiền định. Ví dụ đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một vị thánh nhân như vậy. Vì vậy thân các Ngài đã từ bỏ mọi bất thiện hạnh và đã thực hiện các hoạt động làm cho hạnh nguyện trì giới được viên thành. Khẩu các Ngài không bao giờ nói dối mà luôn trung thực và thẳng thắn. Tâm các Ngài luôn tràn đầy tình yêu thương và lòng bi mẫn, hoàn toàn dứt bỏ việc dối lừa. Đây là các vị thánh nhân. Còn theo hệ thống Mật thừa hay Kim Cang Thừa thì chúng ta nói đến năng lực của các bậc trì minh vương (Vidyadhara) – có tất cả bốn cấp độ [trì minh vương].

Đó là theo hai hệ thống Kinh thừa và Mật thừa. Tuy nhiên về cơ bản thì phẩm hạnh của họ như nhau. Các vị thánh nhân và các vị trì minh vương đều có cùng phẩm hạnh là tình yêu thương, và đó cũng là phẩm hạnh của chư Phật trong ba thời. Tất cả chư Phật quá khứ đã trưởng dưỡng tình yêu thương, chư Phật tương lai cũng sẽ trưởng dưỡng tình yêu thương, chư Phật hiện tại đang trưởng dưỡng tình yêu thương. Điểm chung của các vị thánh nhân và các vị trì minh vương là họ luôn quan tâm đến chúng sinh v.v. Vì vậy nội dung của nghi quỹ từ đầu cho đến phần này liên hệ tới năng lực xuất phát từ lòng đại bi của chư Phật. Năng lực của chư Phật chính là tình yêu thương rộng khắp dành cho mọi chúng sinh. Chính vì lẽ đó mà chư Phật đã giác ngộ được chân lý tối hậu và đã đạt đến trạng thái đại hỷ lạc bất biến. Còn chúng sinh thì chưa nhận ra được chân lý tối hậu và vì vậy họ phải chịu đau khổ. Vì thế chư Phật có lòng đại bi dành cho chúng sinh. Thông qua tâm nguyện thấm đượm tình yêu thương của chư Phật mà các vị đã hóa hiện dưới nhiều hình thức trong sáu cõi luân hồi để mang lại lợi ích cho chúng sinh, ví dụ dưới dạng các nguyên tố, hoa lá, nước, cây cối, trái quả v.v. Tất cả những thứ đó không phải do con người tạo ra mà hiện hữu một cách tự nhiên, chúng xuất hiện do bởi tâm nguyện đại bi của chư Phật.

Nghi quỹ tiếp tục với, “Nếu sau khi đã cùng nhau hội ý dựa trên thái độ và hành vi cao thượng theo truyền thống chung của Trời, người và quỷ thần, mà giữa họ vẫn còn sự rối loạn, thì pháp cúng dường khói hương này là để giải trừ những rối loạn đó”. Ở đây nói đến sự xáo trộn giữa Trời, người và quỷ thần. Ba dạng tồn tại này đến từ đâu? Từ khởi thủy tất cả họ đều là một dòng tâm tương tục. Bằng cách nào họ trở thành những chúng sinh riêng biệt? Ví dụ chúng sinh trở thành các vị Trời là nhờ những thiện hạnh đến từ tình yêu thương và lòng bi mẫn mà họ đã làm. Họ đã thực hiện thiện hạnh và không gây bạo động, không gây tổn hại cho các chúng sinh khác. Những chúng sinh như thế khi chết sẽ được tái sinh thành những vị Trời hoặc người v.v. Còn những sinh linh xấu ác hay ma quỷ thì có sự chấp ngã rất mạnh mẽ. Họ thường có tâm ganh đua và những ý định xấu ác với các chúng sinh khác. Tâm tham vọng và ganh đua thì có hai dạng. Một dạng tích cực, ví dụ đấu tranh để cải thiện đất nước mình hoặc học hỏi để hiểu biết nhiều hơn. Còn dạng tham vọng sai trái, tâm xấu ác thì như thế này: để tốt cho mình, họ hãm hại chúng sinh khác, để trở nên thân thiết với đối tượng nào đó thì họ lại chia rẽ chúng sinh khác. Để tốt cho mình thì họ lại làm tổn hại đến đất nước. Họ có tâm phá hoại, tâm của họ rất tệ hại, họ phá hủy duyên lành của chúng sinh khác. Vì thế khi chết đi họ đầu thai thành sinh linh xấu ác. Đức Đạt-la-lạt-ma có dạy rằng: đừng nên theo bất kỳ một vị thần linh nào vì họ còn chưa giải thoát khỏi chấp ngã và chưa giải thoát khỏi khổ đau cùng với các cảm xúc ô nhiễm như sân hận, đố kỵ v.v. Vì thế mặc dù ban đầu bản tâm tất cả là đồng nhất, tuy nhiên các chúng sinh với tâm sân hận và đố kỵ thường đi đâu cũng hay gây hấn với kẻ khác. Dù là chúng sinh hữu hình hay vô hình thì khi tâm thức họ đi đến đâu, họ cũng đều tự nhiên hung hăng với kẻ khác. Nếu là chúng sinh hữu hình thì họ tức giận, có khi đánh nhau với kẻ nào họ gặp và có thể còn tự tử. Khi tức giận thì chính bản thân họ không có hạnh phúc và họ gây bất an cho kẻ khác. Sân hận rất độc hại và vì thế khi chết đi, họ phải chịu đầu thai thành sinh linh xấu ác trong nhiều trăm năm. Ví dụ nếu một người tự tử vì tức giận và họ trở thành ma quỷ. Cứ mỗi tuần thì họ lại phải chịu cảm giác chết do tự tử. Mặc dù không có thân tướng nhưng do bám chấp mà họ phải chịu cảm giác chết đi chết lại như vậy mặc dù họ không có thân vật lý thực sự – tức là phải chịu cảm giác lặp đi lặp lại về việc họ tự giết hại mình. Đặc tính của những sinh linh xấu ác là phải chịu sự hành hạ như thế, và họ gây tai hại vì họ phải chịu nhiều khổ đau.

Tuy nhiên họ chỉ có thể gây hại được cho kẻ khác nếu có sự kết nối về nghiệp. Chúng ta có nhiều loại kết nối nghiệp với các chúng sinh, kể cả kết nối nghiệp thiện và kết nối nghiệp bất thiện. Ví dụ các vị Trời có thể mang lại lợi ích cho chúng ta thông qua kết nối nghiệp tích cực và quỷ dữ có thể hãm hại chúng ta thông qua kết nối nghiệp tiêu cực. Chư Phật là các đấng toàn giác nên biết được phương pháp để tịnh hóa. “Nếu sau khi đã cùng nhau hội ý dựa trên thái độ và hành vi cao thượng theo truyền thống…” – ở đây đức Phật và các bậc toàn giác thuyết phục và chỉ bày cho họ. Giống như thể đức Phật và các vị Bồ Tát quy tập để quán chiếu xem phương pháp gì để tịnh hóa những rối loạn đó. Và đức Phật với trí tuệ toàn giác biết được rằng, cách rốt ráo là chúng sinh cần phải ăn năn và sám hối để tịnh hóa các bất thiện nghiệp họ đã gây ra với nhau, để giải quyết các bất hòa đó.

Có người nói là đôi lúc tôi được vị thần giúp và có lúc bị ma quỷ hãm hại. Làm sao để chúng ta hiểu được mối quan hệ này. Ví dụ đôi khi chúng ta đã có mối liên hệ với các vị thần nào đó, rồi chúng ta tham gia vào các hoạt động khác nhau với một tâm thức và ý đồ ô nhiễm làm phật lòng họ, và chúng ta tổn hại mật nguyện của mình, tổn hại cam kết với các vị thần đó. Đối với Bổn tôn trí tuệ, nếu chúng ta làm tổn hại Ngài thì Ngài cũng không khởi tâm sân hận. Dù rằng các Ngài không hãm hại đáp trả lại nhưng vì chúng ta đã phá vỡ mật nguyện nên chính bất thiện nghiệp đã gây ra sẽ trổ quả, ví dụ chúng ta gặp phải cảnh nghèo túng v.v. Ngoài ra chúng ta cũng gặp phải những chúng sinh đã có kết nối nghiệp từ trước, ví dụ với những sinh linh xấu ác luôn có ý đồ xấu xa dù đi đến bất cứ nơi đâu. Nhưng để có thể thực sự gây hại và tác động tiêu cực đến chúng ta thì đầu tiên phải có sự kết nối về nghiệp. Vì vậy nguyên nhân chính là bất thiện nghiệp và những hành động tiêu cực, che chướng của chính chúng ta. Có nghĩa là trong quá khứ chúng ta đã tham gia vào các hành động bất thiện, đã hình thành nên kết nối nghiệp bất thiện. Trong tương lai khi gặp ma quỷ thì họ chỉ là “duyên” mà thôi. Vì thế “nhân” là nghiệp của chúng ta, và “duyên” là chướng ngại, che chướng, ma quỷ v.v. Nếu đã có “nhân” thì khi gặp “duyên,” chúng ta mới có thể bị hãm hại. Ví dụ một số người nói là tôi đến nhà kia, ăn ở đó và về bị ốm; hoặc họ nói rằng có người kia đến và làm hại tôi v.v. Những người đó lại coi thức ăn v.v. là nhân gây phiền toái cho họ. Thực chất thì thức ăn hay người hãm hại hay ma quỷ chỉ là “duyên” mà thôi. “Nhân” là những hành động chúng ta đã tự mình tạo ra trong quá khứ, và nếu chúng ta không làm những hành động đó (không có những nhân đã gieo) thì không thể một duyên nào hay một ma quỷ nào có thể hãm hại chúng ta được cả.

Chính sự lầm lẫn về nhân và duyên là sự nhầm lẫn của chúng sinh. Ví dụ chúng ta nghĩ, tôi đã cho người ta mượn tiền và rồi không được trả và vì vậy mất toàn bộ số tiền đó. Nhưng thực ra người mà chúng ta cho vay tiền không phải là nguyên nhân. Chúng ta nghĩ rằng chính người kia đã lấy hết tiền của mình nhưng thực ra điều đó không đúng, đó chính là sự lầm lẫn. Thực ra, đó chỉ đơn thuần là duyên, vì trong quá khứ chúng ta đã tạo nhân – đã lấy gì đó từ họ. Nếu trong quá khứ chúng ta không lấy gì từ họ thì họ cũng không thể lấy đi thứ gì của chúng ta trong cuộc đời này. Vì thế người lấy đi tiền của chúng ta chỉ là duyên. Nếu thấu hiểu về nghiệp thì chúng ta có thể thấu rõ về sự lầm lẫn nói đến ở đây, và ăn năn những hành động bất thiện đã tạo ra trong quá khứ. Chúng ta nên nghĩ rằng mình đã làm điều bất thiện trong quá khứ và thông qua việc chịu mất tiền mà mình tịnh hóa nghiệp chướng và trả món nợ nghiệp. Nếu nghĩ theo cách này chúng ta sẽ không tức giận đối với người khác hay đối với “duyên”. Đó chính là phương pháp để hóa giải, tức là xuất phát từ sự sám hối trong tâm mình. Và ở bên ngoài chúng ta thể hiện bằng nghi lễ cúng dường khói hương, bằng sự cúng dường thuốc pháp gia trì v.v. Vì vậy với bất cứ thứ gì chúng ta cúng dường cho chúng sinh, hãy cầu nguyện và hồi hướng để xua tan đi sự đói khát, thiếu thốn và đau khổ của họ. Khi tình yêu thương chạm tới họ, thông qua việc chúng ta hồi hướng cho họ với tình yêu thương và lòng bi mẫn, thì họ sẽ nguôi cơn sân hận. Tạm thời họ là hương linh, họ có một thân phi vật lý (thể vía). Mặc dù không có thân vật lý nhưng họ vẫn phải chịu đau khổ như vậy, ví dụ chịu cảm giác đói, khát, lạnh, nóng, thiếu thốn v.v. Và thực ra với thân ở thể vía của những hương linh đó thì sự thống khổ còn nhiều hơn là đối với thân vật lý. Vì vậy hãy nghĩ rằng thông qua pháp cúng dường khói hương, họ sẽ có bất cứ thứ gì họ cần. Ví dụ nếu lúc này họ đói thì xin chọ họ có cảm giác no đủ. Và khi họ thấy no đủ thỏa mãn thì đau khổ trong tâm họ được xua tan và thay thế bằng cảm thọ an lạc trong thân và tâm. Đó chính là phương pháp để giải quyết những thù nghịch và oán hận.

Dòng tiếp theo nói rằng: Khi sự trong sạch bị trộn lẫn với sự đồi bại và bất tịnh, đây là cách để tịnh hóa. Thứ nhất là đồi bại, ở đây muốn chỉ đến những ác hạnh tồi tệ nhất, ví dụ giết hại cha mẹ, họ hàng, bạn bè v.v. đó là đại ác hạnh. Với hành động đồi bại như thế, ví dụ giết hại người đã có kết nối yêu thương với chúng ta và người đó được các vị thần có duyên nghiệp với họ bảo vệ. Trong trường hợp đó các vị thần và sinh linh đều bị sốc khi thấy chúng ta giết hại người kia. Và họ trở nên tức giận và sân hận. Khi họ chết, họ trở nên rất phẫn uất và vì thế trở thành ma quỷ với tâm thức gây hại cho con. Đó là sự đồi bại. Còn bất tịnh là bất cứ hành động nào chúng ta làm với tâm dối lừa, tâm tức giận, tâm không sáng rõ. Khi trong sạch bị trộn lẫn với đồi bại và bất tịnh thì tâm trở nên không sáng rõ. Vì thế bất tịnh làm cho tâm không sáng rõ, làm ô uế tâm, làm tâm không chánh niệm. Ví dụ khi chúng ta uống thuốc phiện hoặc nghiện rượu, nghiện thuốc v.v. thì tất cả những thứ đó làm mất đi sự sáng rõ của tâm và làm tăng ô nhiễm trong tâm. Khi tâm không sáng rõ thì chúng ta sẽ tham gia vào hàng loạt bất thiện hạnh qua thân và khẩu – bất kỳ bất thiện hạnh nào trong mười bất thiện hạnh.

Liên quan đến việc xem tiên đoán (hay còn gọi là xem “mô”), cũng có nhiều khía cạnh liên quan đến nội dung chúng ta nói ở đây. Ví dụ ai đó làm “mô” cho chúng ta và người đó có tài liệu giải thích “mô”. Sau khi họ làm “mô”, họ xem chỉ dẫn trong tài liệu về “mô” và trong đó sẽ hướng dẫn nên làm gì, ví dụ làm lễ puja nào đó. Tức là tài liệu hướng dẫn như vậy, nhưng tài liệu cũng từ thời xa xưa. Có trường hợp người đệ tử sau khi được vị Lạt-ma của họ làm “mô” và hướng dẫn cử hành puja thì đến hỏi Thầy là con không biết phải tìm những hướng dẫn về lễ puja đó ở đâu. Thầy nói rằng đừng hỏi Thầy mà hãy đến hỏi vị Lạt-ma đã xem “mô” vì Thầy không có câu trả lời. Sở dĩ Thầy nói không có câu trả lời vì có thể một số tài liệu hướng dẫn liên quan đến “mô” còn giữ được, nhưng một số khác không lưu giữ được. Do đó thời nay thật khó để có thể làm theo những hướng dẫn như vậy một cách chính xác. Chính vì thế Thầy thường trả lời rằng, thay vì việc đi tìm tài liệu hướng dẫn mà có thể không tìm lại được, thì cách để giải quyết tất cả các vấn đề là: thứ nhất ăn năn, sám hối mọi ác hạnh đã gây ra những chướng ngại như thế; thứ hai, nương tựa vào Bổn Tôn và thực hành Bổn Tôn; ngoài ra tiến hành cúng dường khói hương. Như vậy có thể giải quyết được tất cả vì pháp cúng dường khói hương cũng bao hàm mọi puja. Pháp cúng dường khói hương có thể xua tan bất cứ điều gì không tốt. Thực chất thì mọi puja đều được mô tả trong pháp cúng dường khói hương, hay mô tả trong pháp thực hành Bổn Tôn Quan Âm (Tara) và cũng được thể hiện trong việc sám hối của chúng ta. Vì vậy pháp cúng dường khói hương có thể xua tan bất cứ khó khăn nào, bất cứ sự đau khổ nào.

Nghi quỹ này là khía cạnh bên ngoài (khía cạnh ngoại tại) của nghi lễ cúng dường khói hương. Cúng dường khói hương nội tại tức là tất cả những ai đã bước vào đường đạo đều thực hành Bồ Đề Tâm. Ví dụ chúng ta đọc tụng Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát và đó là cúng dường khói hương nội tại. Đó cũng là việc nhận ra luật nhân quả. Khi chúng ta đọc Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát thì trong tài liệu đó cũng giải thích về luật nhân quả hay nghiệp. Đó là cúng dường khói hương tối thượng. Đó là việc nhận ra được mặc dù giờ đây chúng ta đang chịu khổ đau nhưng chúng đến từ “nhân” đã tạo trong quá khứ – đó là những cảm xúc ô nhiễm của chính chúng ta, chúng ta đã tạo ra chúng. Vì thế chúng ta không thể trách “duyên”, duyên không phải là chủ thể của những đau khổ mà chúng ta đang chịu. Nguyên nhân chính là những cảm xúc ô nhiễm và chấp ngã của bản thân chúng ta. Phương thuốc đối trị với chấp ngã là tình yêu thương và lòng bi mẫn. Nếu chúng ta mang mọi khổ đau do chấp ngã của chúng sinh vào tâm mình và thực hành theo Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát, trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm và hiểu được sự vận hành của nhân quả, thì đó chính là cúng dường khói hương tối thượng.

Tiếp theo nghi quỹ nói “Khi thành tựu bị trộn lẫn với chướng ngại, đây là cách để thanh lọc”. Khi chúng ta có được thành tựu dù về phương diện thế gian hay tâm linh thì đó đều là kết quả của những công đức hay thiện hạnh đã làm trong quá khứ. Ví dụ về mặt thế gian chúng ta thành công trong kinh doanh hay có vụ mùa tốt đẹp thì đó đều là những thành tựu. Những thành tựu như thế đến từ các nguyên nhân đã tạo trong đời quá khứ. Vì đời quá khứ chúng ta đã thực hiện các hành động bằng thân và khẩu với một tâm thức yêu thương nên đời này chúng ta có những thành tựu như vậy. Tuy nhiên “thành tựu bị trộn lẫn với chướng ngại…” đó là vì chúng ta đã thực hiện cả thiện hạnh và bất thiện hạnh trong đời quá khứ. Ví dụ chúng ta tham gia vào các hoạt động để mang lại lợi ích cho người bạn mình, nhưng cùng lúc đó thỉnh thoảng lại ganh tỵ với bạn. Như thế là sự trộn lẫn cả thiện hạnh và bất thiện hạnh, chính vì vậy kết quả là có cả thành tựu và chướng ngại. Vì thế cần phải hiểu rằng những gì chúng ta đang tạo ra sẽ trổ quả trong tương lai. Ví dụ một số người có góc nhìn thiển cận nói rằng khi thực hành Pháp thì họ bị đau ốm hay bệnh tật, còn nếu họ không thực hành thì không bị bệnh. Nhưng nói như vậy là không đúng. Người đó không phải bị bệnh do thực hành Pháp mà bị bệnh là kết quả của nghiệp đã tạo trong đời quá khứ. Thực ra khi thực hành Pháp, sự đau ốm của người đó đã thuyên giảm so với mức độ mà nó có thể gây ra. Thực hành Pháp không phải là nguyên nhân của đau ốm mà nguyên nhân chính là do đời quá khứ người đó đã, ví dụ, thọ giới nguyện sau đó không trì giữ tốt và vì thế đời này gặp chướng ngại. Nếu đời trước chúng ta phá vỡ giới nguyện nhưng sau đó sám hối thì đời này khi gặp khó khăn, chúng ta có thể tìm thấy phương pháp để vượt qua. Ví dụ người bị bệnh có thể tìm thấy thuốc, người nghèo khó có thể tìm được của cải. Tức là sẽ có được sự giúp đỡ hay hỗ trợ lúc gian nan. Còn nếu trong đời quá khứ chúng ta không sám hối thì sẽ không tìm được sự hỗ trợ hay giúp đỡ để vượt qua khó khăn.

Bất cứ thực hành Pháp nào chúng ta làm trong đời này là để giúp cho cuộc đời vị lai. Đức Phật nói rằng “Nếu muốn biết chúng ta đã làm gì trong quá khứ, hãy nhìn vào thân tướng trong đời này.” Thân tướng chúng ta trông như thế nào là do các hành động đã làm trong đời quá khứ. Đức Phật cũng nói “Nếu muốn biết sẽ đi về đâu trong đời vị lai, hãy nhìn vào các hành động hiện tại.” Những gì chúng ta làm, dù là thiện hạnh hay bất thiện hạnh, sẽ mang lại kết quả trong đời vị lai và quyết định cuộc đời vị lai của chúng ta. Chúng ta không nên kỳ vọng kết quả ngay lập tức. Ví dụ nếu gieo hạt năm ngoái thì năm nay có thể có lúa để mì làm bánh mì. Nếu gieo hạt năm nay thì sang năm sẽ có bánh mì, chứ chúng ta không thể mong chờ có lúa mì và bánh mì để ăn luôn được. Dù có việc gì xảy ra đi chăng nữa, ví dụ có ai làm gì đó hãm hại chúng ta, thì thực chất đó chỉ là “duyên”. Có một số bất thiện hạnh có thể trổ quả nhanh trong đời này hoặc trổ quả ngay tức thì, trong trường hợp như thế thì chủ yếu do bất thiện hạnh đó quá mạnh, và thường điều này là hiếm. Thường thì các thiện hạnh hay bất thiện hạnh sẽ trổ quả trong đời vị lai. Vì thế bất cứ thực hành nào chúng ta làm trong đời hiện tại thì sẽ trổ quả trong các đời vị lai.

Tiếp theo “Khi chân lý và sự giả dối, đúng và sai bị trộn lẫn, đây là cách để làm cho sáng tỏ”. Ví dụ có người rất chân thật trong cuộc đời này, không làm điều gì sai trái nhưng vẫn bị người khác buộc tội và bị giam hãm tù đày. Đó là do người đó đã làm gì đó không chân thật trong đời quá khứ. Vì thế dù rằng trong đời hiện tại, người đó chân thật nhưng vẫn không có được quả báo tốt đẹp ở khía cạnh này vì đời quá khứ đã làm gì đó không chân thật. Thực hành cúng dường khói hương là cách để giải trừ bất thiện nghiệp đó. Nếu chúng ta thực hành cúng dường khói hương một cách thường xuyên đều đặn thì điều đó sẽ mang lại lợi ích lâu dài.

“Khi tốt, xấu và trung bình trộn lẫn với nhau, đây là cách để thanh lọc”. Điều này cũng giống như phần trên. Bất cứ khi làm gì chúng ta đều gặp cả điều tốt và điều xấu. Đôi lúc chúng ta gặp những hoàn cảnh tốt đẹp nhưng cũng vẫn có cả khó khăn. Hầu như thế giới này phần lớn là như thế. Đời này cũng giống đời trước, chúng ta không có được một hạnh phúc thường hằng mà có cả hạnh phúc lẫn chướng ngại. Thực hành cúng dường khói hương có thể cải thiện được hoàn cảnh của chúng ta trong một phạm vi nhất định, và một điều quan trọng hơn, đó là là việc thực hành này sẽ giúp chúng ta thuần thục tâm thức. Khi chúng ta cúng dường thì sẽ giúp tích lũy công đức trong các đời vị lai.

Tiếp theo “Khi những sai sót xuất hiện trong các nghi lễ, đây là cách để loại bỏ.” Khi chúng ta hành trì nghi quỹ, đôi khi có sai sót, ví dụ, không trì tụng chính xác, không thể có đủ mọi phẩm vật cần thiết hay không đủ các điều kiện trợ duyên cho nghi lễ. Chúng ta có thể gặp phải những điều như thế khi thực hiện các nghi lễ, và điều đó có thể gây ra chướng ngại. Cúng dường khói hương sẽ xua tan những chướng ngại này.

“Khi Trời, người và quỷ thần trở nên bất tịnh, đây là cách để tịnh hóa.” Ví dụ đối với quỷ thần, chúng ta có thể làm họ vui lòng bằng cách cúng dường khói hương. Chúng ta có mối liên hệ duyên nghiệp với một số chúng sinh phi nhân nhất định. Họ ở bên chúng ta mặc dù chúng ta không nhìn thấy họ, và họ hóa hiện dưới nhiều cách. Đôi lúc họ là những người giúp đỡ chúng ta, đó là phương diện tốt lành. Đôi khi họ lại chính là những chủ nợ gây hại. Tất cả đều do những kết nối về nghiệp. Họ đi cùng với chúng ta, đến mọi nơi chúng ta đến và ở cả nơi chúng ta sinh sống v.v.

“Khi Trời, người và quỷ thần trở nên bất tịnh, đây là cách để tịnh hóa.” Có nhiều tôn giáo và nhiều phương pháp thực hành tâm linh. Người ta nhắc đến tà thuật, sự hãm hại v.v. – đó là ý mà nghi quỹ nói đến ở đây: Khi Trời, người và quỷ thần trở nên bất tịnh. Đôi khi chúng ta khẩn nguyện Bổn Tôn trí tuệ, ví dụ, Bổn Tôn thực hiện công hạnh giác ngộ dưới dạng phẫn nộ – đây là một trong bốn công hạnh giác ngộ của các Ngài. Giả dụ một đất nước có kẻ tội phạm độc ác, phá phách và rất sân hận, thì kẻ đó cần phải được thuần phục bằng phương pháp phẫn nộ. Đó là mục đích của công hạnh giác ngộ dưới dạng phẫn nộ của Bổn Tôn trí tuệ. Công hạnh ở dạng phẫn hộ không hề là hành động xuất phát từ tâm tức giận hay sân hận, mà đến từ Bồ Đề Tâm. Trong một số nghi quỹ có nói là chúng ta cúng dường thịt, máu và xương; khi đó cần phải hiểu điều ấy liên quan đến ba độc hay ba cảm xúc ô nhiễm của chúng ta. Ví dụ, vô minh tương ứng với thịt, tham luyến tương ứng với máu, sân hận tương ứng với xương. Khi nghi quỹ nói về cúng dường thịt, máu và xương, thì cần phải hiểu theo cách đó – đó là phương pháp để tịnh hóa tam độc. Chúng ta có thể thấy trong nghi quỹ nào đó nói rằng: “uống máu và ăn thịt .v.v.” Mục đích là phá hủy các cảm xúc ô nhiễm, chính là tam độc của chúng ta. Đó là phá hủy các cảm xúc ô nhiễm thông qua Bồ Đề Tâm. Chính thông qua Bồ Đề Tâm mà chúng sinh được kiến lập trên con đường dẫn đến giải thoát. Chính Bồ Đề Tâm làm an dịu và tịnh hóa các tâm địa hiểm độc. Nếu không được tịnh hóa theo cách này thì các chúng sinh xấu ác kia sẽ bị đọa xuống ba cõi thấp bởi nghiệp lực. Đó là cách chúng ta thực hành Bổn Tôn trí huệ tướng hung nộ (còn được gọi là vị Trời xuất thế gian hay Minh Vương).

Quỷ thần là muốn nói đến thần linh thế gian. Đôi khi người ta tụng chú và thỉnh gọi các vị thần linh thế gian đến để hãm hại kẻ khác. Thần linh thế gian khác với các Bổn Tôn trí tuệ. Thần linh thế gian đôi khi gây ra bất ổn giữa mọi người và hãm hại họ. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng gốc rễ của việc bị hãm hại là nghiệp của chính mỗi người. Như chúng ta đã đề cập, nguyên nhân chính là bất thiện nghiệp hay tam độc của chúng ta. Nếu không có mối liên hệ nghiệp thì dù thần linh có muốn hãm hại chúng ta nhiều mức nào chăng nữa thì họ cũng không thể làm được. Chỉ khi có liên hệ nghiệp chính là “nhân”, thì khi cộng thêm “duyên” chính là ma quỷ hay thần linh, mới có thể xảy ra sự hãm hại. Cần phải hiểu rằng gốc rễ và mấu chốt là nghiệp của chính mình. Vì thế cần phải nghĩ theo cách này: mình đã gây ra bất thiện hạnh trong quá khứ, mình đã gây thương tổn cho kẻ kia trong quá khứ, và vì thế giờ đây họ gây thương tổn lại cho mình. Mình đã làm điều sai trái và giờ đây mình cảm thấy hối hận. Cho nên cần phải nhận ra được rằng ma quỷ hay thần linh chỉ là “duyên” mà không phải là “nhân”. “Nhân” chính là hành động chúng ta đã làm trong quá khứ. Điều này rất quan trọng cần được hiểu rõ. Ví dụ những ma quỷ kia muốn hãm hại, muốn dùng bùa ngải hay tà thuật v.v. thì chúng sẽ luôn ở đó và có ý đồ hiểm độc nhưng chúng không thể hãm hại tất cả mọi người. Chúng có thể hãm hại một số người nhưng một số người khác thì chúng lại không thể hãm hại nổi dù có cố đến mức nào đi chăng nữa. Vì những người khác kia không gây ra những bất thiện hạnh trong đời quá khứ nên dù ma quỷ có muốn hãm hại họ thì cũng không thể hãm hại được. Chẳng ai có thể hãm hại được họ cả. Ví dụ một người bị bắt vì tội ăn trộm mặc dù anh ta vô tội và không làm điều gì sai trái. Anh ra đến tòa án và tòa kết luận là anh ta vô tội, anh ấy không làm điều gì sai và vì thế không bị xử phạt. Còn nếu anh ta đến tòa và người ta tìm thấy bằng chứng rõ ràng là anh ta đã ăn trộm thì sẽ bị bắt. Tương tự như vậy, nghiệp sẽ quyết định kết quả. Nếu không có liên hệ nghiệp thì không thể bị hãm hại. Sự hãm hại bởi quỷ thần có thể được tịnh hóa thông qua cúng dường khói hương.

Bất tịnh hay che chướng cũng có mối liên hệ với những suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta có thể suy nghĩ theo cách: mình sẽ bị hãm hại, có ai đó đang muốn hãm hại mình. Vì nghĩ như thế nên chúng ta gặp phải ác mộng và trong mơ có ai đó đến hãm hại mình. Để giấc mơ đó xảy ra thì trước tiên cũng vẫn phải có liên hệ nghiệp và rồi được phản ảnh trong giấc mộng của chúng ta. Pháp cúng dường khói hương có thể làm sáng tỏ tâm chúng ta, xua đi những che chướng trong tâm ấy. Khi ấy ác tâm của người khác đối với ta có thể được xua tan. Và họ có thể trở thành bạn hoặc người hỗ trợ và không gây hại cho chúng ta nữa. Rốt ráo thì chính thông qua Bồ Đề Tâm mà những che chướng kia được xua tan. Đó là điểm cần thực hành. Đôi khi chúng ta nhờ xem “mô” và tiên đoán, rồi đôi khi kết quả có thể gây ra những suy nghĩ và lo lắng trong tâm, nó được phản ảnh trong giấc mơ. Chúng ta có ác mộng và nghĩ rằng có ai đó đến hãm hại mình. Mặc dù đó chỉ là suy nghĩ nhưng vẫn phải có sự liên hệ nghiệp [thì những suy nghĩ hay ác mộng đó mới xảy đến]. Pháp cúng dường khói hương là để xua tan tất cả những che chướng đó.

“Khi giấc mơ báo điềm xấu, đây là cách để xua tan. Khi dấu hiệu, tiên đoán, chiêm tinh là tiêu cực, đây là cách để loại bỏ.” Chỗ này cũng liên quan đến sự bất tịnh mà chúng ta vừa nói đến ở trên. Điểm này rất quan trọng vì thường chúng ta hay hiểu lầm, do đó gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ khi có giấc mơ xấu chúng ta luôn cố để hiểu và biết được điều gì đang xảy ra. Một số hành giả Pháp hoặc những người theo tâm linh có các cách giải thích khác nhau về giấc mơ. Một số người mặc dù không theo tâm linh nhưng khi gặp phải giấc mơ xấu, họ cũng muốn hiểu ý nghĩa và muốn biết điều gì xảy ra. Một số người có thể đi hỏi tiên đoán (xem “mô”). Như Thầy đã nói ở trên, trong các tài liệu liên quan có giải thích nhiều thứ và đề xuất các việc khác nhau cần làm, các lễ puja cần tiến hành. Đôi khi chúng ta không có đủ những điều kiện để tiến hành các lễ puja như thế. Hơn nữa người ta lại quá xem trọng những việc đó mà quên đi việc suy ngẫm về nguyên nhân của những sự tổn hại đang gặp phải. Chúng ta quên suy ngẫm về luật nhân quả, thay vào đó lại nghĩ rằng người khác đã làm điều sai trái, đó chính là suy nghĩ có hại và chính suy nghĩ này làm hại chúng ta. Pháp cúng dường khói hương là cách để tịnh hóa những ô nhiễm đó.

Thực sự thì sự tịnh hóa xảy ra như thế nào? Đầu tiên, điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào nhân quả. Cần phải hiểu rằng nếu tiền nghiệp đã gieo thì rồi sẽ đến lúc trổ quả dù rằng chúng ta có thực hiện nghi lễ gì đi chăng nữa. Nếu có nghiệp thì sẽ trổ quả. Nếu không có tiền nghiệp thì không ma quỷ hay tà thuật nào có thể hãm hại chúng ta. Vì vậy điều đầu tiên là cần nhớ trong tâm mình sự vận hành của luật nhân quả. Thứ hai, nếu chúng ta có giấc mơ xấu và muốn xua tan nó thì trước tiên không nên nói cho nhiều người về giấc mơ đó và cũng không nhất thiết phải đi hỏi tiên đoán. Bản thân Thầy khi gặp giấc mơ kiểu như thế thì Thầy chỉ nương tựa vào đức Quan âm (Tara), thực hành Pháp và tin tưởng vào luật nhân quả. Đó chính là phương pháp để xua tan giấc mơ xấu. Ở phần trên đã nói, nếu trong đời quá khứ con đã sám hối lỗi lầm và hiện tại con đang thực hành giáo Pháp thì có thể xua tan được điềm xấu. Tuy nhiên nếu nghiệp của con không thể tiêu trừ được thì nó vẫn sẽ trổ quả cho dù con có thực hiện bao nhiêu nghi lễ hay xem bao nhiêu tiên đoán đi chăng nữa. Đó chính là kinh nghiệm cá nhân của Thầy. Thầy chưa từng bao giờ đi xin tiên đoán hay xem “mô” [cho chính mình]. Thầy luôn nghĩ là nghiệp sẽ quyết định. Nếu gặp khó khăn thì Thầy sẽ thực hành và nương tựa vào đức Quan Âm (Tara). Nếu khó khăn qua đi thì tốt, còn nếu không thì đó chính là nghiệp của Thầy. Hiểu như thế nên Thầy không cần đến tiên đoán. Bởi vì xem tiên đoán đôi khi gây ra rất nhiều suy nghĩ trong tâm. Vì thế tốt hơn là không nên dựa vào tiên đoán mà nên thực hành Bổn Tôn và tin sâu về luật nhân quả. Nếu có thể thay đổi được điềm xấu, ví dụ do trong quá khứ con đã sám hối, thì bây giờ việc thực hành cúng dường khói hương hay thực hành Bổn Tôn Quan Âm có thể xua tan điềm xấu ấy. Còn sẽ khó để có thể xua tan điềm xấu nếu con chỉ dựa vào việc xem tiên đoán và chiêm tinh.

“Khi năm giác quan trở nên che chướng, đây là cách để thanh lọc.” Năm giác quan trở nên che chướng là do nghiệp và cảm xúc ô nhiễm của bản thân chúng ta. Khi giác quan bị che chướng, chúng ta có thể nhìn thực tại theo cách sai lệch và không chân thực. Pháp cúng dường khói hương giúp dẹp bỏ che chướng và làm cho giác quan được sáng rõ.

“Khi các vị thần bảo hộ và các vị thần tài bảo trở nên bất tịnh, đây là cách để tịnh hóa.” Thường thì chúng ta có thể được vị thần bảo hộ nào đó bảo vệ cho bản thân và gia đình mình. Làm sao họ lại bị làm cho bất an – điều này được giải thích ở dòng tiếp theo: “Khi mà sự thù nghịch, tranh cãi, đố kị nảy sinh, đây là cách để loại bỏ.” Trong gia đình nếu các thành viên sống không hòa thuận, ví dụ luôn có cãi cọ và xung khắc giữa cha mẹ và con cái thì mối quan hệ đó trở thành giống như thuốc độc. Điều đó sẽ làm bất an những vị thần bảo hộ gia đình ấy. Nếu gia đình đó hòa hợp thì những vị thần bảo hộ sống ở đó cũng hòa hợp và an lành. Còn nếu ở trong gia đình mà, ví dụ, cha mẹ luôn mắng và tức giận với con cái thì chính những cảm xúc tức giận, sân hận, ghen tỵ sẽ làm tâm của thành viên trong gia đình bất an và cũng làm bất an tâm của những vị thần bảo hộ sống ở nơi đó. Chính vì vậy họ lại trở thành ma quỷ gây hại. Chính bởi vì cảm xúc ô nhiễm như đố kỵ, tức giận, sân hận của gia đình đó đã làm bất an tâm của các vị thần bảo hộ, điều đó làm họ đau khổ và đánh mất trí tuệ, vì thế họ gây nên đủ loại tổn hại.

Giả sử có một người bạn con hết mực yêu thương. Nếu cãi vã xảy ra và con nổi giận thì con có thể đánh mất tất cả nhận thức và cảm giác, trở nên hoàn toàn bị che chướng. Một điều nguy hiểm là khi người ta bị hoàn toàn che chướng do sân hận thì có thể dẫn đến đánh nhau và thậm chí là giết nhau. Người ta có thể trở nên hoàn toàn vô ý thức về điều mình đang làm nếu bị che chướng bởi các cảm xúc sân hận và đố kỵ v.v. Thực ra gia đình và bạn bè là những người chúng ta yêu thương và không thể cư xử kiểu như vậy. Vì thế cúng dường khói hương là phương pháp giúp xua tan những che chướng trong các mối quan hệ gần gũi đó, và cũng giúp xua tan đi những bất an gây ra cho các vị thần bảo hộ và các vị thần linh thổ địa.

“Khi ảo tưởng và vọng niệm xuất hiện, đây là cách để xua tan.” Khi thực hành Pháp, chúng ta thường gặp phải rất nhiều kinh nghiệm khác nhau trong tâm và cũng gặp phải nhiều loại suy nghĩ. Có lúc chúng ta cảm thấy bình an, có lúc lại thấy bực bội và không an lành trong tâm. Chúng ta nhận ra đó là sự hóa hiện từ chính những suy nghĩ của mình. Cách suy nghĩ và chính những suy nghĩ đã dẫn chúng ta gặp phải đủ loại hình thái khác nhau. Ví dụ có người nhìn thấy ma quỷ nhưng chỉ mình người đó thấy vậy. Những kiểu suy nghĩ và ảo tưởng như thế có thể dẫn người ta đến chỗ hóa điên. Vì thế điều quan trọng Thầy muốn nhắc lại ở đây là chúng ta cần phải hiểu được vấn đề căn bản. “Nhân” chính là tiền nghiệp chúng ta đã gieo trong quá khứ và “duyên” chính là các loại suy nghĩ khác nhau xuất hiện. Pháp cúng dường khói hương là cách để xua tan những suy nghĩ ảo tưởng đó.

“Khi có sự xúc phạm gây ra bởi việc xây cất các thành quách, các tòa nhà và nhà cửa trên đất đai, đây là cách để làm an dịu. Khi các vị bảo hộ lơ đãng với kết nguyện của họ, đây là cách để phục hồi”. Nội dung này có liên quan đến câu tiếp theo: “Khi có ngày xấu, tháng xấu, năm xấu hay thời điểm xấu, đây là cách để tịnh hóa”.

Liên quan đến ngày, năm và sao thì thực tế là một số ngôi sao có vị thần chủ mệnh. Điều này được phản ảnh trong tên gọi của các ngày trong tuần vì nó liên quan đến vị thần làm chủ mệnh ngôi sao. Vì thế mỗi ngôi sao có liên hệ đến một vị thần chủ mệnh của ngôi sao đó. Nếu chúng ta làm bất an các vị thần chủ mệnh ngôi sao thì họ sẽ tức giận và có thể gây ra tổn hại. Cúng dường khói hương là cách để làm an dịu các vị thần chủ mệnh ngôi sao và thần thổ địa trong khu vực. Giống như đối với đất nước, nếu ai đó đến làm tổn hại đất nước thì người dân sẽ làm mọi việc để bảo vệ. Tương tự như thế, nếu chúng ta xây nhà ở một nơi nhất định nào đó thì có thể gây ra xáo trộn và bất an; và vì thế cúng dường khói hương là để xua tan đi các bất an gây ra cho các vị thần công thổ địa. Tuy nhiên như Thầy đã nói, gốc rễ là tiền nghiệp chúng ta đã tạo trong quá khứ, và duyên là chòm sao, ngày, tháng, năm không tốt. Ví dụ nếu một người có công đức vĩ đại thì chòm sao, ngày, tháng và năm sẽ tự nhiên thuận lợi cho người ấy. Tức là nghiệp chính là thứ mang tính chất quyết định. Tuy nhiên khi chúng ta xây nhà mới hay khi có xáo trộn, chướng ngại xảy ra trong nhà chúng ta đang ở thì cúng dường khói hương là phương pháp tốt để giải quyết các chướng ngại đó.

Tiếp theo, “Khi các vị bảo hộ lơ đãng với kết nguyện của họ, đây là cách để phục hồi.” Có các vị bảo hộ nhất định cam kết bảo vệ chúng ta và nơi chốn của chúng ta. Khi hành động của chúng ta làm phật lòng họ thì họ cảm thấy bị xáo trộn, tức giận và gây hại. Vì thế cúng dường khói hương là để nhắc nhở họ về những kết nguyện xưa.

“Khi các vị thổ thần, long thần và các phi nhân quyền năng có những bất hòa, đây là cách để giải tỏa.” Thổ thần là các vị thần làm chủ vùng đất nhất định – ví dụ nơi chúng ta xây nhà; long thần là vị chủ vùng nước; và phi nhân quyền năng là chủ của vùng không gian. Khi chúng ta làm phiền họ, họ sẽ cảm thấy bị xáo trộn và bực tức rồi gây tổn hại. Vì thế cúng dường khói hương là để giải tỏa.

Nói tóm lại nghi lễ cúng dường khói hương này có thể xua tan đi bất kỳ loại chướng ngại nào. Nếu con không thể tụng nghi quỹ này và không thể cử hành nghi lễ cúng dường khói hương thì con có thể tụng đọc Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát. Ví dụ nếu con xây nhà, con có thể tụng đọc Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát ở nơi đó vì nó giúp làm an dịu thần công thổ địa. Vì thông qua nghe về Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát, họ có thể phát khởi tình yêu thương, lòng bi mẫn và hạnh kham nhẫn trong tâm. Và điều đó sẽ làm an dịu sự bất an trong tâm của những chúng sinh phi nhân đó. Thực chất khi thực hiện bất cứ hoạt động nào con cũng có thể tụng đọc Ba Mươi Bảy Pháp Tu Bồ Tát vì điều đó có thể an dịu tâm của những chúng sinh đang bực tức và vì thế họ không gây hại – ở đây là các loại chướng ngại khác nhau của ngày, tháng, thời gian, hay chướng ngại từ xây cất nhà cửa hay của tà thuật v.v. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng tất cả các che chướng đều đến từ nghiệp lực của chính chúng ta.

Nghi quỹ cúng dường khói hương này tuy không dài nhưng rất thâm diệu và vì vậy không dễ để có thể hiểu được. Cần nhiều thời gian để có thể dịch và hiểu được nội dung của nghi quỹ này. Người phiên dịch nghi quỹ từ tiếng Tạng sang tiếng Anh đã mất 5 năm để dịch và sửa đổi. Người phiên dịch này đã đặt nhiều câu hỏi cho các vị đạo sư từ Tây Tạng, Ấn Độ và các nước phương Tây khác, đã tra cứu từ điển để thực sự hiểu được ý nghĩa của những từ ngữ trong nghi quỹ, vì bản văn này ý nghĩa rất sâu xa. Thầy không học nhiều nên chỉ giải thích tương đối về ý tứ trong bản văn, giải thích đề cương và tóm tắt của nghi quỹ này. Các con nên tra thêm từ điển và tìm hiểu thêm về ý nghĩa của những ngôn từ và phẩm vật cúng dường nói trong nghi quỹ, vì ngôn từ và phẩm vật cúng dường đều mang một ý nghĩa rất sâu sắc. Việc hiểu được ý nghĩa là rất quan trọng.

“Bởi vì nghi lễ cúng dường khói hương tịnh hóa thâm diệu này đã được khảo sát kỹ lưỡng, thông qua năng lực hoàn thành viên mãn nghi lễ này, mọi sự đều sẽ được thông suốt và sáng tỏ.” Có những nghi lễ cúng dường khác nhau, ví dụ cúng dường khói hương hay cúng dường thủy tịnh. Ý nghĩa của những nghi lễ này là như nhau. Ví dụ trong lễ cúng dường thủy tịnh thì cũng tiến hành tụng nhiều minh chú như minh chú Kim Cang Tát Đỏa v.v. Nhiều minh chú được đọc và gia trì cho nước, có thể cho thuốc Pháp vào nước rồi rắc nước lên khu vực đất cần được gia trì. Tấm gương soi cũng được sử dụng trong cúng dường thủy tịnh. Gương soi được giơ lên biểu hiện rằng cả khu vực được phản ảnh trong gương, rồi nước được rót qua gương, và vì vậy toàn bộ khu vực được phản ảnh trong gương đều được tịnh hóa thông qua việc rót nước gia trì qua gương như thế. Nghi lễ cúng dường này cũng mang lại lợi ích giống như cúng dường khói hương. Nghi lễ cúng dường khói hương hay cúng dường thủy tịnh có thể tịnh hóa bất kỳ chướng ngại nào, làm an dịu bất cứ vị thần linh hay ma quỷ nào.

“Thông qua năng lực hoàn thành viên mãn nghi lễ này, mọi sự đều sẽ được thông suốt và sáng tỏ”. Khi chúng ta thật sự suy ngẫm và tìm hiểu nhiều lần ý nghĩa của pháp thực hành này thì trí tuệ hiểu về ý nghĩa của pháp tu này sẽ gia tăng.

“Thông qua chân ngữ của các thánh nhân, không có gì là không thành tựu.” Đây là những giáo huấn đến từ đức Liên Hoa Sanh, và những chân ngữ này thì tương ưng với giáo huấn của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì thế tất cả nội dung của nghi quỹ thực hành này tương ưng với các giáo huấn của chư Phật như là giáo huấn về luật nhân quả và giáo huấn về thân người quý hiếm v.v.

“Thông qua nghi lễ có tính tương duyên cát tường này, không có gì không được trọn vẹn!” Tính tương duyên muốn nói đến sự vận hành của luật nhân quả. Tính tương duyên chỉ ra rằng Bồ Đề Tâm sẽ dẫn đến hạnh phúc và tâm chấp ngã sẽ dẫn đến khổ đau. Tính tương duyên cũng liên hệ đến ba năng lực như đã đề cập đến ở trên. Thông qua ba năng lực này mà pháp cúng dường khói hương có thể được viên thành.

Nói tóm lại cúng dường khói hương có thể xua tan đi mọi khổ đau đến từ chấp ngã bởi vì pháp này dựa trên nền tảng là Bồ Đề Tâm. Vì thế nếu chúng ta cử hành nghi lễ cúng dường khói hương với tâm nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sinh thì nhân và duyên sẽ hội tụ, và do vậy mọi sự sẽ viên thành. Đó cũng chính là sự vận hành của nghiệp khi nhân và duyên hội tụ: nhân chính là Bồ Đề Tâm và duyên chính là nghi lễ cúng dường khói hương. Khi nhân và duyên hội tụ thì mọi việc sẽ thành tựu. Vì vậy sự tịnh hóa trong pháp cúng dường khói hương có thể được thành tựu như đã giải thích ở đây.

“Với công phu thực hành pháp tu này, mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp.” Khi cúng dường khói hương, người ta có thể thực hiện theo các cách khác nhau. Một số người muốn tụ hội thành nhóm và rồi đốt lên một ngọn lửa lớn. Tuy nhiên cũng không cần thiết và có khi là nguy hiểm nếu chúng ta đốt lửa rộng. Chỉ cần lửa nhỏ hoặc thậm chí chỉ cần nhang thôi là đủ. Thực tế là trong hầu hết các loại nhang đốt thì những chất liệu cúng dường khói hương đã được bao hàm đủ trong đó rồi. Chúng ta đốt hương, rắc thêm chút bột hương và một chút thuốc pháp hoặc đôi khi chỉ cần nguyên liệu của cây bách là đủ. Quan trọng nhất là tâm. Tâm mong nguyện mang lại lợi lạc, có lòng sùng kính đến Bổn Tôn và lòng bi mẫn hướng về chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi. Thực sự thì chính là thông qua tâm mà việc thực hiện cúng dường khói hương được viên thành, tức là mọi thứ trở nên tốt đẹp trong pháp hành trì này. Thông qua tâm với ý nguyện mang lại lợi lạc thì hạnh phúc sẽ sinh khởi và như thế thì mục đích được viên thành. Tương tự như đã nói đến trong phần thực hành sáu thủ ấn ở đầu nghi quỹ, mọi thứ được làm cho tăng lên gấp nhiều lần thông qua năng lực của tâm.

Về thời gian thực hành cúng dường khói hương, chúng ta có thể thực hành hàng ngày, một tuần một lần hoặc một năm một lần. Khi con càng thực hành đều đặn thì lợi ích càng to lớn.

Sau đó nghi quỹ nói tiếp: “Ê-ma-hô! Xin hãy quán xét điều này”. Sau khi nói Ê-ma-hô, chúng ta chơi nhạc cụ để cúng dường âm thanh. Thông qua đó chúng ta tích lũy công đức.

“Hôm nay, để giúp chúng con – đạo sư và đệ tử – có thể làm an dịu và tịnh hóa sự bất tịnh, sự vi phạm các mật nguyện, hận thù, đố kỵ, dịch bệnh và các chướng ngại, chúng con khẩn xin tập hội thánh chúng tôn quý toàn tri toàn giác, xin hãy đoái tưởng!” Đạo sư, đệ tử v.v. tức là những người cùng nhau cử hành nghi lễ cúng dường khói hương này khẩn cầu tập hội thánh chúng tôn quý toàn tri toàn giác xét duyệt đề nghị của họ.

Làm sao các mật nguyện bị vi phạm? Các mật nguyện bị vi phạm nếu chúng ta đánh mất tình yêu thương thông qua thù hận. Khi đó tâm của chúng ta trở nên bất an, và khi nội tâm trở nên bất an thì sẽ ảnh hưởng đến các nguyên tố bên ngoài. Vì vậy thế giới bên ngoài cũng bị xáo trộn. Do trong thế giới này người ta ngày càng bất an do sân hận và đố kỵ nên điều đó đã ảnh hưởng đến môi trường bên ngoài. Một số nơi trước đây không nóng lắm thì giờ đây đã trở nên nóng nực, những nơi trước đây không lạnh lắm thì giờ đây trở nên ngày càng lạnh hơn v.v. Chúng ta có thể nhìn thấy điều đó trên trái đất này. Vì thế nội tâm của chúng sinh và các nguyên tố ngoại tại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Và nếu tâm bất an thì cũng gây xáo trộn cho các nguyên tố và môi trường bên ngoài. Chính vì ngày nay trên thế giới sự sân hận và đố kỵ của con người gia tăng, có ít người trưởng dưỡng tâm yêu thương, nên có nhiều sự tàn hoại xảy ra cho thế giới bên ngoài. Và cúng dường khói hương cũng là biện pháp để giải tỏa và làm cho những chướng ngại này được bình ổn. Để bình ổn chướng ngại, chúng ta khẩn cầu tập hội thánh chúng tôn quý toàn tri toàn giác đoái tưởng.

Ở đây tập hội thánh chúng tôn quý là đối tượng hướng tới của pháp cúng dường khói hương. Có bốn thửa ruộng công đức để chúng ta hướng tới. Thứ nhất là Tam Bảo, Bổn Tôn, Da-ki-ni (không hành nữ) v.v., đó là các vị ở cảnh giới cao. Thửa ruộng công đức thứ hai là các vị Hộ Pháp, các vị Trời v.v. Thửa ruộng công đức thứ ba là chúng sinh trong sáu cõi luân hồi – tất cả họ đều từng là cha mẹ chúng ta trong các đời quá khứ. Và thửa ruộng công đức thứ tư là các chủ nợ ân oán của chúng ta – những kẻ gây chướng ngại cho chúng ta v.v. Tất cả sẽ được viên thành thông qua cúng dường khói hương.

Tiếp theo “Hôm nay khi [sự giao hội của] các hành tinh và các vì sao trên tầng không là cát tường, và khi xem xét đất đai [thì thấy rằng] tất cả các phẩm tính tốt đẹp cùng những điều mong cầu đều được trọn vẹn. Hơn nữa, ngày giờ cũng rất may mắn. Ngày hôm nay tốt đẹp, chiêm tinh thì cát tường cho việc cử hành nghi lễ an dịu và tịnh hóa này.” Rinpoche nói phần này đã được diễn giải rõ và chúng ta không cần giải thích thêm.

Sau đó tiếp theo trong nghi quỹ: “Chư Phật, chư Bồ Tát và các vị A La Hán đều đã dứt trừ được mọi nhiễm ô! Nương vào chân lý tối thượng của Đức Phật Thế Tôn, đấng dẫn đầu loài người; nương vào chân lý tối thượng của pháp tánh tự do thoát khỏi mọi tham luyến; nương vào chân lý tối thượng của Tăng đoàn, dẫn đầu mọi hội chúng – nương vào sự gia trì đích thực từ Tam Bảo – nguyện cho nghi lễ cúng dường khói hương được thành tựu viên mãn”.

“Chư Phật, chư Bồ Tát và các vị A La Hán đều đã dứt trừ được mọi nhiễm ô”. Ở đây muốn nói rằng các vị đã hoàn toàn vượt thoát sự bám chấp nhị nguyên, đã tự do thoát khỏi cái nhìn đối đãi ta-người.

“Nương vào chân lý tối thượng của Đức Phật Thế Tôn, đấng dẫn đầu loài người; nương vào chân lý tối thượng của pháp tánh tự do thoát khỏi mọi tham luyến; nương vào chân lý tối thượng của Tăng đoàn, dẫn đầu mọi hội chúng.” Đầu tiên là đấng dẫn đầu loài người – chính là đức Phật. Phẩm hạnh của đức Phật là gì? Đức Phật đã đạt được giác ngộ – Ngài đã chứng ngộ được tính bất nhị, xua tan đi bám chấp nhị nguyên, đã hợp nhất với trí tuệ nguyên sơ. Đó là tóm tắt phẩm hạnh của đức Phật. “Nương vào chân lý tối thượng của pháp tánh tự do thoát khỏi mọi tham luyến.” Pháp tánh thể hiện chân lý tối thượng – chính là tánh Không. Đây chính là Pháp tối thượng, giảng giải về chân lý tối thượng là tánh Không. “Nương vào chân lý tối thượng của Tăng đoàn, dẫn đầu mọi hội chúng.” Phật và Pháp tụ hội trong Tăng bảo. Tăng bảo chính là hiện thân của Tam Bảo. Phật hay tâm của tất cả chư Phật là tình yêu thương và lòng bi mẫn. Pháp – khẩu [của chư Phật] – là giáo huấn về hai chân lý. Đối với những ai chưa nhận ra chân lý tối hậu thì họ được giảng dạy về chân lý tương đối – đó là quy luật nhân quả không sai trệch. Còn đối với những ai có thể chứng ngộ được chân lý tối hậu thì họ được giảng dạy về chân lý tuyệt đối đó và giác ngộ được trí tuệ nguyên sơ bất nhị. Vì thế khẩu là giáo pháp, và Tăng đoàn cao quý là hiện thân của cả ba viên ngọc quý, chính là Tam Bảo.

Chúng ta nói rằng chỉ trong một Tăng đoàn mà thể hiện được chư Phật ba thời. Vậy năng lực hay phẩm hạnh của Tăng đoàn là gì? Ví dụ chỉ cần bốn người cùng trì giữ giới nguyện thì đã trở thành một tăng đoàn mạnh mẽ, là nơi kết nối với chư Phật ba thời. Tâm của chư Phật ba thời và tâm của Tăng đoàn trân quý thực chất là như nhau, phẩm hạnh của tâm đó là như nhau. Vì thế do phẩm tánh đến từ sức mạnh kết nối với năng lực của chư Phật ba thời, chúng ta có thể viên thành mọi thực hành Pháp. Đặc biệt là thông qua những phẩm tánh của ba năng lực: năng lực đến từ tâm nguyện thanh tịnh của chúng ta, năng lực đến từ tình yêu thương vĩ đại của chư Phật và năng lực đến từ Pháp tánh, mà chúng ta viên thành tâm nguyện của mình trong Pháp cúng dường khói hương này.

Làm sao các tâm nguyện thực sự được viên thành? Về khía cạnh rốt ráo, chúng ta nhận ra một nền tảng chung nhất. Mặc dù chúng sinh trong sáu cõi luân hồi phải chịu đau khổ nhưng những đau khổ đó không có sự tồn tại cố hữu. Vì thế nương vào năng lực đến từ lòng đại bi của chư Phật, chúng sinh trong sáu cõi luân hồi có thể phát khởi lòng từ bi. Nếu họ có thể phát khởi lòng từ bi thì tâm bám chấp của họ sẽ giảm thiểu và rồi họ sẽ đạt được giác ngộ. Vì thế chúng sinh có tiềm năng để đạt giác ngộ, và họ có thể được giúp đỡ để tiến bước trên con đường đạt đến giác ngộ. Chính bởi tiềm năng của họ mà khi cử hành nghi lễ cúng dường khói hương, chúng ta có thể thật sự mang lại lợi lạc cho họ. Vì thế đó là mục đích của pháp cúng dường khói hương, và do đó nghi quỹ nói rằng “Nương vào sự gia trì đích thực từ Tam Bảo – nguyện cho nghi lễ cúng dường khói hương được thành tựu viên mãn!”

Ê-ma-hô! Xin hãy quán xét điều này! Với biển mây cúng dường của Đức Phổ Hiền, chúng con tịnh hóa, chúng con cúng dường! Chúng con tịnh hóa với gỗ cây bách cha [như] gỗ đàn hương trắng. Chúng con tịnh hóa với gỗ cây tùng mẹ [như] gỗ đàn hương đỏ. Chúng con tịnh hóa với gỗ trầm hương, vua của các loại thuốc. Chúng con tịnh hóa với cây bách Trung Hoa, vua của hương thơm. Chúng con tịnh hóa với nhang thiêng, với đỗ quyên trắng. Chúng con tịnh hóa với làn hương ngọc lam rạng ngời của nhánh cây bách tuyệt diệu. Chúng con tịnh hóa với hương thơm của loài cây quý – loài ngải trắng. Chúng con tịnh hóa với mùi hương thơm nức của cây ngải cứu trắng!

Đối trước chư Đạo sư – [là] nơi nương tựa tối thượng – cùng giáo huấn các Ngài trao truyền, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư Phật toàn hảo là đấng dẫn đầu trong thế giới loài người, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước giáo Pháp trân quý không sai chệch giúp thanh tịnh các tập khí, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước Tăng đoàn cao quý là ruộng công đức, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước mạn-đà-la của các Đấng chiến thắng và thánh chúng chư vị Bổn Tôn, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa.

Nói về đoạn: “Đối trước giáo Pháp trân quý không sai chệch giúp thanh tịnh các tập khí, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước Tăng đoàn cao quý là ruộng công đức, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa.” Làm sao chúng ta lại hình thành những tập khí (nghiệp)? Những tập khí là những dấu ấn thành thói quen đã in vào tâm thức chúng ta. Giáo pháp có thể giúp tịnh hóa những tập khí này. Nói một cách ngắn gọn, giáo pháp bao gồm hai chân lý. Chân lý đầu tiên là chân lý tương đối nói về luật nhân quả không bao giờ sai chệch và vì thế chúng ta cần trưởng dưỡng tâm vị tha. Vì khi chúng ta trưởng dưỡng tâm vị tha thì lòng đại bi không bờ bến sẽ tăng trưởng và khi đó cái tôi sẽ biến mất. Tập khí tồi tệ nhất hay dấu ấn tồi tệ nhất trong tâm là “cái tôi”, một đại dương “cái tôi”. Khi chúng ta tạo ra “tôi” thì cũng tạo ra “người khác”, vì vậy có sự bám chấp nhị nguyên. Nếu sự bám chấp vào cái tôi được tịnh hóa, nếu không còn cái tôi nữa thì cũng không còn người khác nữa. Khi không có cái tôi thì chúng ta nhận ra “ta” và “người” không tồn tại một cách tách biệt mà là bất nhị vì tâm giống như hư không. Giống như băng đã tan vào đại dương và không còn sự khác biệt, khi đó chúng ta nhận ra được sự thật tối hậu, là tính bất nhị – tính Không.

Giáo pháp đến từ đâu, chúng ta nhận được giáo pháp từ ai? Dòng thứ hai có nói: Tăng đoàn cao quý, là ruộng công đức. Giáo pháp đến từ tăng đoàn cao quý, từ tâm và khẩu của tăng đoàn. Giáo pháp là những giáo huấn của tăng đoàn cao quý, các giáo huấn về luật nhân quả v.v. Vì thế chúng ta cúng dường khói hương đến ruộng công đức là tăng đoàn cao quý.

Thực chất tăng đoàn cao quý chính là ruộng công đức tối thượng. Chính vì thế chúng ta sẽ tích lũy công đức vô cùng to lớn nếu phục vụ các tu viện hoặc các thành phần nào đó của tăng đoàn. Đó là ruộng công đức tuyệt hảo, là thửa ruộng để chúng ta gieo trồng hạt giống. Nếu ruộng tốt thì chỉ một số hạt giống thôi cũng làm cho nhiều cây cối đâm chồi và phát triển. Vì vậy cúng dường tăng đoàn mang lại công đức to lớn, và cúng dường chỉ một thành viên trong Tăng đoàn cũng giống như cúng dường toàn bộ tăng đoàn trong ba thời, bởi vì một thành viên cũng đại diện cho tất cả tăng đoàn. Ngày nay ở các nước phương Tây, có những tăng đoàn dưới hình thức các trung tâm pháp. Chừng nào chúng ta còn đang đi trên con đường tâm linh thì chúng ta vẫn cần một hướng để thực hành, và vì thế dù trung tâm nhỏ hay lớn thì đều quan trọng và cần thiết. Điều quan trọng là khi chúng ta phục vụ trung tâm pháp của mình thì cần hòa hợp với các trung tâm khác. Chúng ta không nên thiên vị và chấp thủ vào trung tâm của riêng mình mà cần phải hòa hợp với các trung tâm pháp khác. Pháp (hay giáo pháp) cần phải là phương thuốc chữa trị các phiền não và đặc biệt cần phải là phương thuốc đối trị với sân hận hay đố kỵ v.v. Pháp cần mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh trên thế giới này. Vì thế cả hai hệ thống tâm linh và thế tục cần phải tôn trọng lẫn nhau. Nếu chúng ta có sự kính trọng và tình yêu thương to lớn cho tất cả thì tự nhiên chúng ta sẽ, ví dụ, tuân thủ luật pháp của đất nước, điều ấy sẽ được chúng ta lưu tâm. Vì thế tăng đoàn chính là nơi để chúng ta tích lũy công đức to lớn, và ở các nước phương Tây thì một phần của tăng đoàn chính là các trung tâm giáo pháp. Vì vậy Thầy cảm thấy rằng bất cứ nơi nào Thầy có thể thành lập trung tâm pháp thì đó chính là sự cúng dường của Thầy cho đất nước đó. Và Thầy rất cảm kích những ai đã hỗ trợ các trung tâm pháp. Nếu được như thế thì sau khi Thầy mất, các trung tâm vẫn được duy trì. Và điều này là cần thiết, bởi vì nếu chúng ta không có các trung tâm pháp thì sau khi Thầy mất, mọi thứ sẽ không được lưu giữ lại. Vì vậy Thầy rất cảm ơn những ai đã duy trì và hỗ trợ các trung tâm pháp. Do đó các trung tâm pháp chính ruộng công đức – giống như tăng đoàn cao quý. Để có được sự thành lập tăng đoàn thì ở phương Tây, các trung tâm pháp là cần thiết. Đây là nguồn cội công đức tối thượng. Thực sự thì tất cả những ai đã thọ giới quy y đều là tăng đoàn. Vì vậy sau khi đã thọ giới quy y thì chúng ta nên có niềm tự hào thánh thiện là tôi đã trở thành tăng đoàn cao quý. Điều gì làm cho chúng ta trở nên cao quý. Chúng ta trở nên cao quý là bởi chúng ta có tình yêu cho tất cả chúng sinh và có thể bảo vệ tình yêu thương này bằng sự kham nhẫn. Chúng sinh bình thường cũng có tình yêu thương nhưng bởi vì họ không duy trì được kham nhẫn nên thường hay đánh mất tình yêu thương. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phát triển một niềm tự hào thánh thiện của việc trở thành tăng đoàn cao quý.

Và sau đó nghi quỹ tiếp “Đối trước mạn-đà-la của các Đấng chiến thắng và thánh chúng chư vị Bổn Tôn, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa.” Đối trước vô lượng báo thân tại vô lượng cõi Tịnh độ, nếu chúng ta chỉ phát khởi lòng sùng kính đối với chư vị thì một cách hoàn toàn tự nhiên, sẽ có vô lượng đám mây cúng dường. Thực ra chính Bồ Đề Tâm đã chuyển hóa thành vô lượng cúng dường dâng lên chư vị Bổn Tôn ở các cõi Tịnh độ. Các hóa thân trong sáu cõi luân hồi xuất hiện ở cả hai dạng: thanh tịnh và bất tịnh. Thực chất thì cả những vị điều phục chúng sinh và những kẻ được điều phục đều là các hóa thân. Đối với những kẻ được điều phục, cũng là những hóa thân, thì đầu tiên họ cần trưởng dưỡng tín tâm và lòng sùng mộ đối với chư vị tôn kính là những vị điều phục, và cần phát khởi tình yêu thương và lòng bi mẫn đối với các chúng sinh còn chưa thanh tịnh.

“Đối trước chư vị Hộ Pháp lưu giữ các truyền giảng, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa.” Có rất nhiều các hóa hiện của chư vị Hộ Pháp, ví dụ các vị Hộ Pháp trong ngũ bộ Phật v.v. Việc tìm hiểu sâu về vấn đề này sẽ phức tạp, vì thế nói chung các vị Hộ Pháp ở đây nói đến tất cả các vị trong các dòng truyền thừa cũng như các truyền thống Phật giáo.

“Đối trước chư vị bảo vệ ngoại mật điển trong Kim Cang Bộ, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư vị bảo vệ khẩu truyền, mật chú và mật tạng, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước chư vị bảo hộ dòng truyền thừa của các đạo sư và chư Thầy tổ, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư vị canh giữ những nơi chốn ẩn tu và các trung tâm giáo pháp, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư vị bảo hộ [các pháp tu] phương tiện và thành quả, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư vị bảo hộ luôn sát cánh các hội chúng hùng mạnh, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá”. Đạo sư và đệ tử, huynh đệ kim cang và cha mẹ trong nhiều đời kiếp, có thể sau khi mất, họ tái sinh thành vị thần bảo hộ, vị thần thổ địa v.v. chẳng hạn, và chúng ta cúng dường khói hương để làm hài lòng họ. Nếu chúng ta làm như thế cùng với Bồ Đề Tâm thì năng lực [bảo hộ] của họ sẽ gia tăng. Có thể đời trước họ là cha mẹ chúng ta và bây giờ họ là vị thần bảo hộ, thần thổ địa v.v. Nếu chúng ta cúng dường họ với Bồ Đề Tâm thì sẽ làm gia tăng năng lực bảo vệ của họ đối với chúng ta. Thông qua Bồ Đề Tâm, những che chướng của họ sẽ được tịnh hóa và vì thế năng lực bảo hộ của họ sẽ gia tăng. Còn nếu chúng ta làm phật lòng và không tôn trọng họ thì họ sẽ mất năng lực bảo vệ chúng ta. Vì vậy việc cúng dường khói hương cho họ là quan trọng. “Đối trước chư vị canh giữ những nơi chốn ẩn tu và các trung tâm tôn giáo, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá” – ở đây nói đến các tôn giáo khác nhau. Nghi quỹ tiếp tục: Đối trước chư vị bảo hộ [các pháp tu] phương tiện và thành quả, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước chư vị bảo hộ luôn sát cánh các hội chúng hùng mạnh, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá.

Khói hương tịnh hoá này là để dâng lên các vị thần, vẫn hoạt động như những vị canh gác ban ngày cho tất cả chúng con – đạo sư và đệ tử – cùng các vị thần vẫn trông coi ban đêm và các vị thần ủng hộ cho vị thế của chúng con; dâng lên những vị thần vẫn hoạt động như những chiếc cầu bắc qua các con sông, như những bậc thang trên vách đá hiểm trở, và như những ngọn đèn trong bóng tối; dâng lên những vị thần canh chừng và đánh bại kẻ thù, đưa ra phương thuốc đối trị độc hại và chữa trị bệnh tật bằng thảo mộc, những vị đánh bại đám đông loài quỷ, nhiếp phục các sinh linh xấu ác, và đẩy lùi những đoàn quân trong chiến trận; xin [các vị] hãy thọ hưởng khói hương tịnh hóa.

Khói hương tịnh hóa này là để dâng lên các vị thần đã nâng đỡ và bảo vệ chúng con, đồng thời thành tựu những mong muốn của chúng con – chăm sóc cho con cái và bảo vệ của cải của chúng con; dâng lên các vị thần vẫn hoạt động như những người chăm giữ những đứa bé mới biết đi, chăm giữ ngựa non, và bảo vệ đất tổ của chúng con; dâng lên tất cả các hội chúng hộ trì quyền uy đã bảo vệ thân thể của chúng con; dâng lên các vị nam thần và các vị thần chiến đấu tại địa phương, các vị thần trong gia tiên tiền tổ bên cha và các vị nữ thần của tổ tiên bên mẹ, các vị thần mang lại thực phẩm và thịnh vượng, những quỷ thần mạnh mẽ của vũ khí sắc nhọn; dâng lên những vị chúa đất của các vùng, long thần và những quỷ thần quyền uy trong các cõi [của các vị]; dâng lên các vị vua của các nguyên tố trên trái đất, mười hai tháng [trong năm] và bốn mùa, các vị thần của [các nguyên tố cơ bản cho sự hình thành vũ trụ], các cung chiêm tinh, năm, tháng, các vị thần của các hành tinh, của tinh tú, các vị thần của ngày, thời gian, thời kỳ; và dâng lên bát bộ chúng nội tại và ngoại tại của Trời và quỷ thần hùng mạnh, xin [các vị] hãy thọ hưởng khói hương tịnh hoá.

Khói hương tịnh hoá này là để dâng lên toàn bộ không sót một ai trong số những vị có quyền năng trong tam thiên đại thiên thế giới – [chính là] chư vị trị vì ba cõi – cùng chư vị thống trị tam giới [Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới]; dâng lên các vị Trời, long thần, khẩn-na-la và những vị tương đương đang ngự ở Núi Tu Di, cùng bốn lục địa, bảy núi vàng và bảy hồ vòng quanh, những dãy núi sắt bao quanh, biển và sông, các cung hoàng đạo, mặt trời và mặt trăng, các khu mộ địa, các khu vực rừng và núi; dâng lên các vị càn-thát-bà, cưu-bàn-trà, ca-lâu-la, mãng-xà, dạ-xoa, các vị thần của các nguyên tố, các dạ-xoa-nữ cùng đoàn tùy tùng, xin [các vị] hãy thọ hưởng khói hương tịnh hoá.

Khói hương tịnh hoá này là để dâng lên các vị Trời, long thần và các thánh giả hiện đang ngự ở những vách sâu trong Núi Tu Di, ngụ trong đại dương, ngụ ở những khoảng không gian giữa các hòn đảo, tại núi châu ngọc trên đảo châu báu; dâng lên những vị với năng lực thần thông, cùng với thệ nguyện [xưa], được phú bẩm các sắc tướng hóa hiện đa dạng và năng lực thấu thị, xin [các vị] hãy thọ hưởng khói hương tịnh hoá.

Khói hương tịnh hoá này là để dâng lên các vị thần canh giữ những kho báu dưới lòng đất, những linh đan đã được tôi luyện, những trích liệu dược thảo, cây cối và mùa màng; dâng lên tất cả các vị thần bảo vệ mật tạng Pháp; dâng lên các vị dạ-xoa, dạ-xoa-nữ, khẩn-na-la, càn-thát-bà, la-xát cùng đoàn tùy tùng, xin [các vị] hãy thọ hưởng khói hương tịnh hoá.

Ở phía trên cõi đất này, các cõi thiên được tịnh hóa bằng khói. Tại mặt đất và trong không gian, cõi Trời và quỷ thần được tịnh hóa bằng ngọn lửa. Dưới mặt đất, cõi long thần và phi nhân quyền năng được tịnh hóa bằng than hồng. Khắp mười phương, toàn bộ cảnh giới ngoại tại – [chính là thế giới này] – được tịnh hóa bằng hương thơm.

Ở bên trong, tất cả các chúng sinh lang thang được tịnh hóa. Sáu loại chúng sinh – [chính là] cha mẹ trong ba thời của chúng ta – được tịnh hóa. Những sinh linh hãm hại và gây chướng ngại – [chính là] các chủ nợ ân oán trong các đời quá khứ và vị lai – được tịnh hóa.

Ngoài ra, đối trước chín vị thần sáng lập và những vị tương đương vẫn ngụ tại các Vùng Đất Tuyết của [Trung phần] Tây Tạng và tỉnh Kham, cùng mười ba vị thần săn bắn của Tây Tạng, hai mươi mốt vị thần genyen hùng mạnh thực hành thiện hạnh tại các vùng biên giới, mười hai vị nữ thần tenma bảo vệ Tây Tạng và tỉnh Kham, các vị thổ công thổ địa và các thượng thần canh giữ bầu trời, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước thần cửa Tayag và thần nhà Gethung, chúng con cúng dường khói hương tịnh hóa. Đối trước thần bếp Yumo và thần cánh đồng Tsangpa, cùng thần đường Gönpo và thần ngựa Magpön, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước thần gia súc Mayang và các vị thần tài của, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Đối trước thần phú thương Döndrub cùng vua của các vị thần chiến đấu và các vị tương tự, đối trước các tập hội những vị khách đáng kính, chúng con cúng dường với nhang bột, với những hương liệu để đốt cùng thực phẩm và rất nhiều các thể loại được ưa thích nhất như mong ước. Vì vậy, [nguyện cho] thọ mạng được kéo dài; hạnh phúc và sung túc được gia tăng; giòng giống gia đình cao quý được tăng trưởng; may mắn, uy tín và danh tiếng vĩ đại được nảy sinh.

Ở dòng cuối: “thọ mạng được kéo dài; hạnh phúc và sung túc được gia tăng; giòng giống gia đình cao quý được tăng trưởng; may mắn, uy tín và danh tiếng vĩ đại được nảy sinh”; ở đây việc chúng ta có thể thành tựu được các mong nguyện hay không phụ thuộc vào mối liên hệ duyên nghiệp với các vị Trời, thần bảo hộ v.v. Ví dụ có người mong muốn được phục vụ đất nước mình, người đó có một ý nguyện cao quý không chút vị kỷ, và có thể trở nên rất quyền uy và đầy năng lực, trở nên rất thành công. Người đó được các vị Trời, thần bảo hộ giúp đỡ. Ví dụ trong chiến tranh thế giới lần nhứ nhất và thứ hai đã có rất nhiều chiến sỹ người Mỹ hoặc nước khác tham gia chiến đấu nhưng họ không bị thiệt mạng, đó là do thiện nghiệp của họ, họ đã được bảo vệ bởi các vị bảo hộ phi nhân. Do những kết nối nghiệp và công đức như thế, chúng ta có thể thành tựu được những việc lớn lao. Vì thế năng lực của chúng ta sẽ gia tăng và những vị Trời, thần [có kết nối duyên nghiệp] sẽ là những vị bảo hộ của chúng ta. Đó là trường hợp chúng ta có công đức. Trong trường hợp có bất thiện nghiệp thì ngay cả một vị Vua được vệ sỹ bảo vệ cũng có thể bị sát hại. Vì thế nếu chúng ta tích lũy nghiệp bất thiện và không có đủ công đức thì những vị thần bảo hộ – thay vào việc làm những vị bảo hộ và bằng hữu của chúng ta – sẽ trở thành những kẻ thù và kẻ gây chướng ngại.

Tiếp theo: “Để sám hối trước các vị Bổn Tôn quy y [có năng lực] bảo hộ về những phóng tâm chưa được nhận diện, về tâm bám chấp nhị nguyên và những biểu hiện tiêu cực của chúng con – đạo sư, đệ tử cùng thân bằng quyến thuộc – chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá.” Do sự bám chấp và phân biệt giữa nội tâm và ngoại cảnh, chúng ta làm sinh khởi nhiều phiền não và suy nghĩ. Chúng ta coi những suy nghĩ và cảm xúc của mình là đúng, cho rằng đối tượng bên ngoài tồn tại một cách tách biệt với chúng ta. Do cách nhìn nhận đó, chúng ta tự dán nhãn người là bạn, kẻ là thù, chúng ta tạo ra sự bất hòa, rối loạn giữa Trời, người và quỷ thần. Và chúng ta làm bất an các vị thần linh. Ở trên đã nói rằng khi nội tâm của mình bị bất an do phiền não thì nó cũng gây ra tác động tiêu cực và làm xáo trộn môi trường bên ngoài. Vì thế chúng ta mang vào tâm mình tất cả những lỗi lầm chưa được nhận diện để xin xám hối. Thông qua cách này, lỗi lầm được tịnh hóa. Và chúng ta trưởng dưỡng tình yêu thương đối với các vị Trời, thần bảo hộ. Hơn nữa chúng ta phải rất cẩn thận trong cách ứng xử đối với nhau. Cẩn thận ở đây có nghĩa là cần phải hòa thuận với những người sống xung quanh mình, ví dụ gia đình mình, chúng ta không nên sân hận hay ghen tỵ với họ, không nên đánh lộn hay cãi cọ với họ. Vì những hành động như thế sẽ làm bất an những vị thần bảo hộ. Chính là sự sân hận hay đố kỵ làm bất an họ. Thực ra mọi chúng sinh, dù là người hay quỷ thần đều bị bất an bởi những cảm xúc nhiễu hại như sân hận hay đố kỵ v.v. Vì thế nếu chúng ta sám hối và tịnh hóa thì họ sẽ trở thành những người giúp đỡ chúng ta, trở thành những người bạn.

Tiếp theo: “Để sám hối với sông hồ biển, nơi các vị thần [ẩn trong thân] cá cư ngụ, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá.” Đối với chúng ta, họ xuất hiện như những con cá. Chúng ta nhìn xuống sông hồ biển và thấy đủ loại các sinh vật ở trong nước, ví dụ là cá. Tuy nhiên rất nhiều trong số đó là hiện thân của những vị thần bảo hộ. Ví dụ họ có thể hóa hiện thành cá. Nhưng chúng ta không thể thấy họ, chúng ta chỉ nhìn thấy con cá, trong khi con cá đó chính là hiện thân của vị thần bảo hộ – vị thần cư ngụ ở dưới nước.

“Để sám hối với các ngọn núi, nơi các vị thần [ẩn trong thân] hươu cư ngụ, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá.” Tương tự như vậy các vị thần công thổ địa có thể hóa hiện thành hươu v.v. Ví dụ chúng ta chỉ nhìn thấy đó là con hươu, nhưng thực ra đó là vị thần công thổ địa hóa hiện dưới hình thức con hươu, nhưng chúng ta đã không biết được điều đó.

“Để sám hối với các vị Trời, người, quỷ thần, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các ngôi sao, các long thần phía dưới mặt đất, các phi nhân phía trên mặt đất, các thần linh cõi thiên ở phía trên mặt đất, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá. Để sám hối với các vị Bổn Tôn toàn giác, chúng con cúng dường khói hương tịnh hoá.

Thông qua năng lực gia trì do công phu sám hối và cúng dường; các cảm xúc tiêu cực, các tập khí, sai lầm và khuyết điểm được tịnh hóa. Qua đó, sự bất tịnh, các vi phạm mật nguyện, các hoàn cảnh bất lợi cùng các ô nhiễm do bởi sự than khóc vì mất đi vị hôn phu hay hôn thê, và tất cả những gì tiêu cực đều được xua tan bởi sự chân thực của nghi lễ cúng dường khói hương tịnh hóa này.

Đối với những sai lầm che chướng của thân, khẩu, ý – [các lực] gây che chướng giống như màn sương bao phủ đỉnh núi, [các lực] làm suy kiệt giống như cây leo cao vượt ngọn cây, cùng bất tịnh do vi phạm mật nguyện giống như nhật thực và nguyệt thực – tất cả đều được loại trừ bởi nghi lễ cúng dường khói hương tịnh hóa cát tường này.

Sự tranh cãi, đố kỵ, các vi phạm mật nguyện, lỗi lầm và những điều tương tự đã xuất hiện thông qua sự suy yếu mật nguyện, từ những bất thiện hạnh và các che chướng, cùng sự oán hận gây ra bởi việc xông đốt những chất liệu bất tịnh, và những vi phạm làm phật ý các vị Trời và thần bảo hộ đều được tịnh hóa.

Thông qua năng lực của việc tiến hành nghi lễ cúng dường khói hương tịnh hóa thâm diệu này, xin hãy tịnh hóa những ô uế và bất tịnh đến từ việc vi phạm mật nguyện do mê lầm, xin hãy giúp làm an dịu những hoàn cảnh bất lợi, những chướng ngại, tật bệnh, những ảnh hưởng tai hại cùng sự chống đối, tà thuật và hại họa.

Nguyện cho tất cả các ước mong và tâm nguyện của chúng sinh được viên thành; thọ mạng, sức khỏe, hạnh phúc, tài lộc được tăng trưởng; và nguyện cho sự cát tường của an bình và phúc lạc [hiện hữu] ở tất cả mọi nơi [thảy đều] trở thành các nguyên nhân để đạt đến giác ngộ tối thượng!”

Tổng kết lại, tất cả những sai lầm và che chướng đều đến từ tâm chấp ngã. Ở phần trên có nói đến sự bất tịnh từ việc vi phạm mật nguyện v.v. – tất cả những điều đó làm tâm trở nên không sáng rõ, và khi tâm không sáng rõ thì chúng ta sẽ phạm sai lầm trong các hành động của mình. Có khi rốt cuộc chúng ta gây hấn và đánh lộn với bạn mình, coi bạn thành thù. Và để giúp chúng ta tránh mắc phải sai lầm đó – sai lầm chuyển bạn thành thù – thì chúng ta phải trưởng dưỡng tình yêu thương và phải bảo vệ tình yêu thương đó bằng sự kham nhẫn. Thực ra cúng dường hương khói nội tại chính là yêu thương và kham nhẫn. Và nghi lễ cúng dường khói hương mà chúng ta cử hành là cúng dường ngoại tại, khi chúng ta chuẩn bị nhiều phẩm vật cúng dường và tụng minh chú v.v. Việc tụng đọc nghi quỹ cúng dường khói hương ngoại tại này cũng rất quan trọng và lợi lạc. Nghi quỹ này đã được dịch ra tiếng Anh, và Thầy cũng chỉ có thể giải thích một nửa ý nghĩa trong đó, vì nội dung nghi quỹ này phức tạp và không dễ để hiểu. Vì thế trong tương lai các con nên hỏi thêm các vị Đạo sư tâm linh của mình. Và Thầy cũng mong muốn các con thực hành pháp cúng dường khói hương, ví dụ một tháng một lần hay một tuần một lần. Thầy hy vọng các con thỉnh thoảng sẽ thực hành pháp này. Tiếp theo Lạt-ma BuNima sẽ truyền khẩu nghi quỹ này, vì mắt Thầy nhìn không rõ. Khi các con đã nhận được truyền khẩu nghi quỹ này rồi thì một đệ tử có thể trao khẩu truyền cho một đệ tử khác. Tức là việc một đệ tử truyền khẩu lại cho một đệ tử khác là được cho phép.

 Đức Garchen Rinpoche

Chú thích: Những dòng và đoạn in nghiêng (có hoặc không có ngoặc kép “…” là trích từ nghi quỹ “Cúng dường khói hương” – bản hiệu đính vào tháng 1.2016)

*****

Bài giảng của Garchen Rinpoche tại pháp hội do Trung tâm Drikung Seattle ở Mỹ tổ chức vào tháng 7/2015.

Ina Dhargye dịch nói từ tiếng Tạng sang tiếng Anh, Trần Lan Anh (Konchok Sherab Dronma) chuyển ngữ Anh – Việt vào tháng 1/2016 dựa trên băng ghi âm phần dịch nói tiếng Anh, Tâm Bảo Đàn (Konchog Changchup Drolma) góp ý để hoàn thiện bản dịch.

Nguyện xin thành tâm sám hối mọi sai sót trong quá trình chuyển ngữ. Nguyện xin hồi hướng mọi công đức có được từ việc dịch thuật này cho sự an lạc và giác ngộ của toàn thể hữu tình chúng sinh.