2017-04-10-Tawang-GG13_DSC0009

Từ Bi là giải pháp hoá giải sự xung đột

Vì chủ trương toàn cầu hoá, nên sự hợp tác trở nên thật hệ trọng, nhất là trong các lãnh vực kinh tế và giáo dục. Phong trào thống nhất Âu châu đã giới hạn ảnh hưởng của quan niệm cho rằng những dị biệt giữa các quốc gia là những gì không thể giải quyết được. Tôi cho điều ấy hết sức tuyệt vời và đúng lúc. Tuy nhiên, sự hợp tác chặt chẽ như vừa kể giữa các quốc gia không phải do lòng từ bi hay đức tin tôn giáo áp đặt, mà chỉ đơn giản phát xuất từ nhu cầu. Xu hướng nghiêng về một thứ lương tâm tập thể ngày càng phát hiện rõ rệt hơn trong thế giới ngày nay, và dưới áp lực của các biến cố xảy ra, sự tương quan chặt chẽ kéo mọi người đến gần với nhau đã trở thành một yếu tố không thể thiếu sót cho sự tồn vong của tất cả chúng ta. Khái niệm về trách nhiệm toàn cầu dựa trên lòng từ bi và tình huynh đệ cũng vậy, có phải đấy là những gì hết sức khẩn thiết hay chăng? Thế giới này là một sân khấu phơi bày những xung đột mang tính cách ý thức hệ, tôn giáo và cả trong lãnh vực gia đình. Xung đột dựa vào sự kiện người này thích điều này nhưng người bên cạnh lại thích thứ kia. Nhưng nếu ta thử tìm kiếm nguyên nhân sinh ra vô số những xung đột, thì ta cũng sẽ thấy có vô số nguyên nhân, và hầu hết những nguyên nhân ấy lại nằm nội tâmcủa mỗi con người chúng ta.

Nếu muốn tìm hiểu nguồn gốc của những nguyên nhân gây ra xung đột, thì hãy nên xét đoán khả năng hợp tác của ta đem đến sự hài hoà trước đạ. Tất cả mọi nguyên nhân đều tương đối. Nếu có vô số mầm móng gây ra xung đột, thì cũng có vô số mầm móng giúp cho sự hợp tác và hài hoà. Đã đến lúc phải quan tâm nhiều hơn nữa đến sự hợp nhất. Về điểm này, cần phải kêu gọi đến tình thương yêu giữa con người và sự phân tích kiên nhẫn dựa vào lòng từ bi.

Các quan điểm thuộc về ý thức hệ hoặc về tôn giáo của ta có thể không giống với kẻ khác. Nhưng nếu ta biết kính trọng quyền của kẻ khác và biết bày tỏ lòng từ bi của ta đối với họ một cách chân thật, thì những quan điểm giữa ta và họ dù không giống nhau cũng chẳng hề gì. Đấy chỉ là những điều thứ yếu. Nếu như họ tự tin vào quan điểm của chính họ và rút tỉa được lợi ích, thì đấy là hoàn toàn trong quyền hạn của họ. Ta phải biết kính trọng và chấp nhận trường hợp có thể có những quan điểm không giống nhau trong cuộc sống. Trong lãnh vực kinh tế cũng vậy, những kẻ cạnh tranh với ta cũng cần phải thu hoạch lợi nhuận trên thi trường, vì họ cũng như ta, tất cả đều muốn sống còn. Khi biết nhờ vào lòng từ bi, tầm nhìn của ta cũng theo đó mà mở rộng, tôi nghĩ rằng sự sống nói chung cũng vì thế mà trở nên dễ dàng hơn. Vậy trong trường hợp này, chìa khoá vẫn là lòng từ bi.

Giải trừ vũ khí

Trên một quan điểm nào đó, tình trạng toàn cầu có phần nào cải thiện. Chiến tranh lạnh giữa hai khối Xô viết và Hoa kỳ đã chấm dứt, giờ đây thay vì đi tìm những kẻ thù mới, tốt hơnchúng ta nên nghĩ đến việc giải trừ chiến tranh trên hành tinh này, hay ít ra cũng nên suy tư về một ý niệm nào đó trong việc giải trừ vũ khí, và ngồi lại với nhau để thương thảo một cách nghiêm túc. Tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở những người bạn Mỹ của tôi: “Sức mạnhcủa các bạn không phải là do các thứ vũ khí hạch nhân, mà phát xuất từ những tư tưởng vĩ đại của tổ tiên các bạn trong lãnh vực tự do và dân chủ”.

Trong dịp tôi đến Hoa kỳ vào năm 1991, tôi có gặp cựu tổng thống George Bush. Vào thời kỳ đó, chúng tôi có bàn thảo với nhau rất nhiều về trật tự thế giới và tôi có nói với ông ta như sau: “Một trật tự mới trên thế giới thấm đượm từ bi sẽ là một thứ trật tự tuyệt vời. Nhưng trái lại, tôi không thể hình dung được bất cứ một thứ gì lợi ích trong một trật tự mới cho thế giới này khi mà lòng từ bi không có”.

Tôi nghĩ đã đến lúc cần phải giải trừ vũ khí và phải nêu lên việc này. Sự đổ vỡ của cựu Liên bang Xô viết đã mở ra một con đường đưa đến đến việc giải trừ vũ khí và lần đầu tiên đã cho thấy các khí giới hạch nhân được ngưng sản xuất. Theo tôi, mục đích của chúng ta là giải phóng cho thế giới này – tức hành tinh nhỏ bé của chúng ta – tránh khỏi bàn tay chi phối của vũ khí. Điều đó không có nghĩa là loại trừ tất cả vũ khí. Cần phải giữ lại một số tối thiểu, vì trong số chúng ta lúc nào cũng có những nhóm người mang ý đồ tăm tối. Nếu muốn cẩn thận và tránh rủi ro, chúng ta có thể thành lập một đạo quân cảnh sát quốc tế với sự chỉ huy địa phương, dù cho đạo quân ấy không bắt buộc trực thuộc vào một chính quyền nào cả, nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc, hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào khác. Làm được như vậy, sẽ không còn một nước nào có vũ khí trong tay, những xung đột vũ trang giữa các quốc gia có thể tránh được, và cũng sẽ không còn nội chiến.

Buồn thay, chiến tranh vẫn còn chiếm giữ một vị thế lớn lao trong lịch sử con người. Tôi nghĩ rằng đã đến thời điểm cần phải thay đổi quan niệm về sự can thiệp. Đối với một số người, chiến tranh có nghĩa là vinh quang và cũng là một phương cách để tạo ra các vị anh hùng. Quan niệm chiến tranh như thế là một sự lệch lạc. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, một nhà báo có nêu lên với tôi như sau: “Những người Tây phương rất sợ chết; hình như những người Á châu ít e sợ hơn nhiều”.

Tôi đã trả lời nửa thật nửa đùa như sau: “Tôi nhận thấy quan điểm của người Tây phương đặt một tầm quan trọng quá lớn vào chiến tranh và sức mạnh quân sự. Nhưng một khi đã đề cập đến ‘chiến tranh’ tức là đã nói đến ‘cái chết’ – không phải những cái chết tự nhiên, mà là những cái chết bằng khí giới. Theo tôi, những người Tây phương thích chiến tranh đến độ mà chính họ trở thành những người không sợ chết. Đối với những người Á châu nói chung, và những người Tây tạng nói riêng, thì ý nghĩ về bổn phận phải đánh nhau là một thứ gì không thể chấp nhận được; chúng tôi không thể nào hình dung nổi chiến tranh, bởi vì chiến tranh sẽ chắc chắn đem đến thảm họa, chết chóc, những vết thương đau đớn và những cảnh cơ hàn. Trong tâm thức chúng tôi, ý niệm về chiến tranh mang tính cách vô cùng tiêu cực. Điều đó chứng minh cho thấy chúng tôi đây, chúng tôi sợ chết hơn quý vị nhiều”.

Tiếc thay, vì một số lý do nào đó, nhiều người vẫn duy trì những ý nghĩ sai lầm về vấn đề chiến tranh. Những ý niệm đó tượng trưng cho một mối nguy hiểm ngày càng trở nên trầm trọng hơn cho cả cộng đồng thế giới, vì thế chúng ta cần phải nghĩ đến việc giải trừ khí giới một cách nghiêm túc. Tôi cảm nhận được điều ấy trong lúc đang xảy ra chiến tranh vùng Vịnh và cả thời gian sau đó. Nhất định, không có ai lại không bất mãn với Saddam Hussein vì ông ta đã phạm vào quá nhiều sai lầm và đã hành động một cách hết sức là tai hại. Quả đúng như thế, nhưng khi đã biết Saddam Hussein là một con người độc tài, thì cũng sẽ hiểu rằng một con người độc tài đương nhiên là một kẻ gây ra tai hại. Tuy nhiên, nếu không có sức mạnh quân sự và không có khí giới, làm thế nào ông ta có thể đóng vai trò của một kẻ độc tài. Ai giúp khí giới cho ông ta? Chính là một số quốc gia Tây phương, các quốc gia ấy không hề quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra. Những con buôn khí giới cũng phải nhận lảnh một phần trách nhiệm trong đó.

Chỉ biết nghĩ đến tiền bạc và lợi lộc do việc buôn bán khí giới đem đến quả thật là những ý nghĩ vô cùng khủng khiếp. Tôi có gặp một phụ nữ người Pháp đã từng sống nhiều năm ở Beyrouth. Bà hết sức đau buồn kể rằng bà đã thấy tận mắt nhiều người trong túi nhét đầy khí giới đứng bán trong một khu phố, và đồng thời mỗi ngày lại có những kẻ vô tội bị thảm sát trong một khu phố khác bằng những thứ vũ khí ấy. Song song với những thảm trạng đó, phía bên kia của địa cầu, một số người tận hưởng một một cách phè phởn trên số tiền lợi nhuận do việc buộn bán vũ khí đem đến, trong lúc những kẻ vô tội phải chịu chết bằng những vũ khí tối tân ở những nơi khác. Vậy biện pháp trước tiên phải đem ra thực hiện là chấm dứt việc buôn bán vũ khí. Thỉnh thoảng tôi vẫn chế nhạo các bạn hữu Thụy điển của tôi như sau: “Các bạn là một dân tộc tuyệt vời! Trong cuộc chiến tranh thế giới vừa qua, các bạn giữ thế trung lập và các bạn luôn luôn chủ trương nhân quyền và hoà bình trên thế giới. Thật hết sức cao đẹp! Nhưng này hãy cẩn thận đấy, các bạn vẫn cứ tiếp tục bán khí giới cho kẻ khác. Các bạn không thấy điều ấy có vẻ hơi đạo đức giả một tí hay sao?”

Trong khi xảy ra chiến tranh vùng Vịnh, tôi tự hứa rằng tôi sẽ góp sức để phổ biến những ý niệm về sự giải trừ vũ khi cho đến cái ngày cuối cùng của cuộc đời tôi. Tôi quyết định trong tương lai, quê hương Tây tạng của tôi sẽ là một vùng hoàn toàn phi quân sự. Và để chuẩn bị cho một vùng phi quân sự, yếu tố chính yếu nhất vẫn là lòng từ bi của con người.

Đức Dalai Lama XIV

Trích: Con đường đưa đến Hạnh phúc

Đọc thêm:

Lợi ích của lòng Từ Bi

Phát huy lòng Từ Bi và tình thương

Khơi dậy lòng Từ Bi bao quát